Thứ Ba, 24 tháng 5, 2011

"Việt Dương Nhân và Cát Bụi" - Nguyễn Hữu Nhật - Sương Anh diễn đọc


" Vườn hoa, nụ hồng, hương thơm và tiếng hát...
là những gì tượng trưng cho hạnh phúc con người

Việt Dương Nhân,
qua tập thơ Cát Bụi,
muốn gửi tặng cho đời.
Xin tặng cho đời...một vườn bông
Xin tặng cho đời...những nụ hồng
Xin tặng cho đời...hương thơm ngát
Xin tặng đời...lời hát êm trong... (VDN) "

Nguyễn Hữu Nhật



Âm Bản - Nguyễn Hữu Nhật
Việt Dương Nhân và Cát Bụi

Sau tập thơ Bốn Phương Chìm Nổi, Việt Dương Nhân trong những nhà thơ ở Paris, với sức sáng tác sung mãn, lại gửi đến quý bạn thơ thi phẩm, Cát Bụi, đã nói lên được nhân sinh quan của Việt Dương Nhân về thân phận con người trong cuộc đời tạm bợ nầy, Cát Bụi gửi đến lời chúc tốt :


Mong cầu đây đó vui cười.
Đừng cho Cát Bụi...ngậm ngùi ngày mai.

Việt Dương Nhân coi thơ như vầng trăng, như ánh mặt trời và thơ còn là chiếc thuyền đưa những tâm hồn đau khổ, từ bờ bên nầy, sang qua bờ bên kia hạnh phúc. Thơ đã giải thoát cho chính tác giả khỏi những băn khoăn, phiền muộn một đời ray rức :
Không thắc mắc, bồi hồi gì nữa.
Mà thấy nhẹ nhàng thanh thản...thôi.

Trong nỗi vui mừng tìm ra ý nghĩa tốt lành của đời sống riêng mình, Việt Dương Nhân hân hoan chia xẻ cùng mọi người :
Xin tặng cho đời...một vườn bông
Xin tặng cho đời...những nụ hồng
Xin tặng cho đời...hương thơm ngát
Xin tặng đời...lời hát êm trong...

Vườn hoa, nụ hồng, hương thơm và tiếng hát là những gì tượng trưng cho hạnh phúc con người mà Việt Dương Nhân, qua tập thơ Cát Bụi, muốn gửi tặng cho đời. Còn chính tác giả :
Cố quên bao chuyện âu sâu
Thả hồn theo gió hòa vào hư không.

Nổi âu sầu không chỉ một đời riêng tác giả mà nó giàn rộng ra, cùng khắp quê hương, nơi mà Việt Dương Nhân vẫn gắn bó :
Ai về quê Mẹ xin cho gởi,
Một khối tình thương rải khắp nơi.

Khát vọng thanh bình cho một quê hương từng binh lửa lâu dài, nồi da sáo thịt, củi đậu lại nấu đậu chỉ vì thứ học thuyết mang từ bên ngoài vào mà anh em trong nhà tương tàn. Tựa hồ như đồng ruộng quê nhà chỉ hợp với tiếng hò, lời ca vọng cổ, tâm hồn nông dân đất Việt chưa thấm được cái cuồng động của nhạc Rock Tây phương, Tâm hồn Việt Nam là ‘’bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một dàn’’. Thứ học thuyết, giai cấp đấu tranh, gây oán chuốc thù chỉ càng làm cho đất nước suy yếu. Việt Dương Nhân lo lắng :

Một đời tâm trí chẳng an,
Khối sầu mãi đọng ngập tràn trong tim.

Nhà thơ sinh ra từ những mùa hoa đậu bắp ở Bình Chánh, Gia Định, những ngõ tre mát rượi ngày hè, những đêm trăng sáng ngó các ngọn dừa như đuôi chim công xòe ra trên nền trời đất bạc.
Việt Dương Nhân ra đời sớm, thân lập thân, sức mạnh duy nhất nơi tuổi thơ là tình cảm của một con người không chịu sống lệ thuộc vào người khác, Ba mất sớm. Mẹ có một đời riêng cũng không vui. Người chị dâu khe khắt. Với một tuổi thơ không có tuổi thơ, Việt Dương Nhân rời nhà, xa ruộng đồng và lên tỉnh, Bây giờ nhớ lại lòng còn buồn bã :

Tay nâng ly rượu, rượu cũng hững hờ !
Hớp vô một ngụm, cay bờ môi thâm...

Sài Gòn, trong thơ Việt Dương Nhân, như lãng quên, như nhung nhớ, vì ‘’ Sài Gòn là nơi chôn nhao, cắt rún’’. Còn Paris, ‘’còn Paris, con khôn lớn trên đời’’. Gia Định, Sài Gòn và Paris, ba địa danh lớn lao trong đời nhà thơ. Từ một em bé gái mười hai tuổi rời nhà cho tới nay một thiếu phụ trên năm mươi vẫn xa nhà. Nhưng nhờ thấm thấu tinh thần nhà Phật, Việt Dương Nhân hiểu rằng ''trong ba ngàn thế giới lớn, nơi đâu chẳng là nhà'', nhưng ngôi nhà thời thơ ấu và tình thương Mẹ vẫn thường dậy lên trong lòng tác giả bao mối cảm hoài :

Dĩ vãng buồn !
Gởi lại đất Sài Gòn !
Dĩ vãng sầu !
Cất dấu ở Paris !
Một đời hai dĩ vãng,
Sẽ chôn nơi chốn nào ?

Rún phải cắt, nhau có thể chôn, nhưng dĩ vãng dù buồn hay vui, người ta khó có thể chôn được nó, bởi vì nó là một phần của đời sống, hay chính nó kết lại thành đời sống. Việt Dương Nhân từng chôn chặt dĩ vãng ở trong lòng. Nó bật dậy, sống lại mạnh mẽ trong thơ, không ai chôn được dĩ vãng. Người ta biến nó thành một sức mạnh tâm hồn, đẹp như tình mẫu tử :

Căn phòng xưa cũ vẫn còn
Con về cho mẹ đở mòn xác tâm.

Người chối từ dĩ vãng cũng như một dân tộc chối từ lịch sử của mình ? Việt Dương Nhân đi nhiều nơi trên thế giới và dù muốn hay không, tác giả của tập thơ Cát Bụi cũng là dân sống ở Paris lâu năm, những xa hoa cũng từng trải, nhà thơ vẫn tâm sự chân tình về một dĩ vãng nhiều thua thiệt, đau buồn của mình. Không một lời trách cứ. Bởi Việt Dương Nhân coi mỗi đời người như một cánh lá. Từ khi xuân xanh tới lúc thu vàng :

Nhìn qua song cửa buổi chiều nay
Thấy bao chiếc lá hững hờ bay
Trên cành rơi xuống, dường kinh hãi
Như sợ chân người dẫm nát...thay !

Khoảnh khắc thấy được cái ngắn ngủi của đời sống, nhà thơ hiểu ra lẽ đạo, mọi vui buồn trong đời không lớn lao như người ta tưởng, và dù cho có lớn lao đến đâu, những vui buồn ấy cũng nằm trong cái mỏng manh, qua đi rất nhanh :

Nhìn bầu trời xanh xanh.
Tiếng chim hót trên cành.
Mùa xuân đi qua nhanh.
Kiếp người sao mỏng manh!

Chỉ có thơ, thơ chôn đi được nỗi buồn và làm sống lại niềm vui, ngay trong lúc sáng tác, Việt Dương Nhân trở thành một người cầm bút không phải vì muốn đua chen chữ nghĩa với đời, mà vì chính trong lòng có bao nhiêu điều nếu không viết ra thì khổ lắm. Trước hết là nuối tiếc một thời đã qua :

Đêm khuya im vắng buồn tanh,
Mượn cây bút nhỏ dệt thành bài thơ.
Thẩn thờ hồn mộng, tâm mơ,
Phải chi trở lại tuổi thơ thuở nào...

Một tuổi thơ không quần áo đẹp, không đồ chơi, không đủ ăn và hơn thế nữa, không được vỗ về, an ủi. Tự kiếm sống bằng hai bàn tay trắng. Nụ hoa vươn lên. Rồi nở. Nở không vì mình mong muốn. Mối tình đầu đời lỡ dở với dư vị đắng cay :

Tội thân hoa
Không dám nói một lời
Phải chấp nhận
Vì đời cần sự sống.

Ước mơ của người con gái, thuở Việt Dương Nhân mái tóc chớm xanh, trong thanh bạch không mong giàu có, trong thất thế không trông địa vị, chỉ một lòng thao thức được trở thành :

Chẳng phải vì một chút lợi danh.
Nó mơ từ độ tóc còn xanh.
Mơ thành thi sĩ, hay văn sĩ,
Mà sự học hành quá mỏng manh !

Bỏ học, đi làm, rồi vừa đi làm vừa đi học, trong hoàn cảnh nào cũng khó khăn. Cái khó khăn trước hết của một người có nhan sắc bị lưới đời vây bủa, cùng với trách nhiệm tự ràng buộc gánh vác, chia xẻ cùng những người thân yêu cơ cực, tất cả như một hàng rào ngáng đường tiến thân cho một thiếu nữ con nhà nghèo. Chúng ta trân trọng một tấm lòng thành thật :

Đời Kiều không nghĩa lý gì !
Còn em biết gọi là chi giữa đời ?
Kiều, mười lăm năm chơi vơi.
Em, bốn mươi sáu năm đời khá lâu.

Người nào không yêu quý mẹ mình thật là một bất hạnh lớn lao. Do tình cảnh ngoài ý muốn, những năm nhà thơ bé bỏng, bà mẹ không được ở gần để che chở, chăm sóc khiến nhà thơ phải sống nay đây, mai đó vất vả vô cùng. Vậy mà Việt Dương Nhân vẫn một lòng yêu quý mẹ, biết ơn sinh thành của mẹ. Năm tháng làm mòn mỏi thể xác nhưng tâm hồn nhà thơ vẫn phơi phới, nồng ấm tình người muôn thuở :

Thân con như đã rã rời,
Mà lòng vẫn giữa như thời xuân xanh.

Thời của xuân xanh, thời của tình yêu mới lớn, thời của giọt sương cũng ra châu ngọc, thời của cánh cò trắng vút bay trên hàng dừa nước, những cánh đồng lúa vàng Bình Chánh từ ngã ba Phước Cơ về Hưng Long, những địa danh nổi tiếng thời chiến như Bà tà, Tân Nhựt, tân Kiên... Nơi mà :

Bao nhiêu chất chứa tình thương,
Thương về quê Mẹ vấn vương vạn sầu...

Phần đông người ta muốn thời gian đi chậm, đồng nghĩ với sự kéo dài đời sống, tại sao Việt Dương Nhân lại mong ước :

Ta muốn gào lên cho vỡ đất trời
Cho tan nát hết cõi đời nầy đây
Thời gian hỡi ! sao cứ hững hờ bay
Hãy nhanh đi chớ, cho đời qua mau.

Câu trả lời thật giản dị, thời gian không phải là ‘’đơn vị sống’’ ở kiếp nầy, bởi tình yêu theo Việt Dương Nhân, không tính bằng năm, bằng tháng, mà được tính bằng những kiếp người

Xin hẹn kiếp sau ta sẽ nói,
Kiếp nầy đành gói trọn riêng thôi... !

Mười năm nhớ lại một người, của mùa thu cũ, nỗi nhớ khôn nguôi. Không nói ra được thì phải viết. Tình yêu là mâu thuẫn ? Ngày mong qua mau. Nhưng đêm thì muốn chậm lại :

Đêm nay nhớ lại một người,
Của mùa thu cũ hơn mười năm qua.

Bởi vì đêm có những giấc mộng, trong giấc mộng người thường gặp người, khi mộng tàn canh, người tỉnh dậy cô đơn :

Chợt tỉnh rồi, ôm thương nhớ bơ vơ
Lòng nuối tiếc, muốn đêm dài muôn thuở !

Thơ Việt Dương Nhân, có nhiều chỗ như văn nói mộc mạc, thiếu chải chuốt, nhưng cũng nhờ thế mà tiếng lòng của nhà thơ có được ngôn ngữ riêng biệt, không bị ảnh hưởng tiếng nói của bất kỳ nhà thơ nào. Nó là tiếng kêu tụ nơi tâm hồn tác giả :

Nhờ gió làm ơn gặp một người
Nói rằng : ta đợi mỏi mòn hơi
Hãy về cho kịp, không ta chết
Xin giúp dùm ta nhé gió ơi !

Tình yêu, trong đời một người đàn bà, dù thuở xuân hay buổi tàn thu, bao giờ cũng là một ám ảnh khôn nguôi, người đàn bà có thể chịu sống thiếu thốn mọi thứ, chỉ trừ tình cảm :

Hồn ta như đã lâng lâng
Bỏ chăn gối lạnh một lần nữa đây !

Nhưng một người đàn bà biết suy nghĩ, như Việt Dương Nhân, hai lần khổ hơn so với những phụ nữ khác không bận lòng vì tình yêu quê hương. Quê hương làm động tâm nhà thơ không chỉ hình ảnh bà mẹ già ở quê nhà chờ mong con cháu về xum họp. Quê hương không chỉ là những trẻ thơ tan tác trong chiến tranh và trôi dạt thời hậu chiến. Nó còn là tiếng ca ai oán của làn hơi ''vọng cổ hoài lang'' của ông sáu Lầu. Nhớ chồng khi nghe tiếng trống. Tiếng trống đêm thời Pháp thuộc đưa những người yêu nước đi đày. Nhà thơ cho biết ông nội của mình làm ''tay sai'' cho ''thực dân'' mà người cha lại đi ''kháng chiến'' chống Pháp. Nghịch cảnh gia đình đó không làm giảm lòng gắn bó của Việt Dương Nhân với quê mẹ Việt Nam. Nhà thơ cảm ơn Paris, đất dung thân, nhưng biết ơn Sài Gòn và tạ ơn quê nhà Gia Định. Nhớ mãi từ bát canh chua cá Ngác, tới miếng dừa nước trong veo. Mùi rơm rạ sau mùa gặt. Đặc biệt là vọng cổ, một loại hình nghệ thuật dân gian, giọng sầu thảm, nhưng hơn bất kỳ thứ dân ca nào trên thế giới, bởi sau khi cất lên được tiếng than người ta thấy nhẹ lòng. Vọng cổ, bản chất là thơ, có thể dựng thành ca kịch với nhiều thể điệu khác nhau. Nhị hồ, tức đàn cò, một thứ vĩ cầm Đông phương dìu dặt. Phải là người miền Nam mới thấm thấu được cái hay của vọng cổ. Nó đặc biệt như cây đàn guitar phím trũng, chứa đầy những thanh âm :

''Trưởng huynh ơi ! Đời em là một cánh chim đơn, với cuộc sống thăng trầm gặp bao cơn giông tố, giờ đây em xin bỏ đời cát bụi, cặm cuội ngồi nhà mà cầu nguyện thế gian, và cầu cho Quốc Thái Dân An, mong đất Mẹ Việt Nam có một vầng trăng sáng, rồi đây với những tháng ngày Nắng-Mới, đàn chim Việt sẽ vỗ cánh bay về''.

Vọng cổ, dưới ngòi bút Việt Dương Nhân, không hề ai oán. Thú vị vô cùng khi chúng ta hình dung, trên bờ sông Seine có một người phụ nữ phương Đông bề ngoài Tây hóa, mà trong lòng lại rất Việt Nam, vẫn âm thầm soạn các bài vọng cổ :

''Lấy lửa công minh mà đốt quyền độc trị, cho nước Việt mình có Dân chủ Tự do, và nhà nhà được cơm no áo ấm, hưởng mọi quyền người như tất cả nhân sinh, hơn hai mươi ba năm chiến chinh đà nguội lạnh, mà sao còn nghi ngút lửa thù căm...''

Việt Dương Nhân với tư cách nhà thơ hay soạn giả các bài ca vọng cổ, trước sau vẫn chỉ là người đa cảm, biết thương yêu và chia xẻ cùng thân thích, bạn bè, thương nhớ quê nhà và lòng cháy bỏng một niềm mơ ước chung cho cả dân tộc mình.
"Hãy làm sao cho sáng ngời nước Việt, cho dân tộc mình một cuộc sống bình yên".

Nhưng ở đây, trong bài viết nhỏ nhoi nầy, tôi chỉ muốn nói tới một Việt Dương Nhân nhà thơ. Nhà thơ của Sài Gòn ba trăm tuổi 1668-1998, nơi mà nước mắt và tiếng cười của nhà thơ từng đổ ra, bật lên với bao kỷ niệm :
Yêu em từ thuở vào đời,
Khi cành hoa búp lả lơi gió chiều.
Áo dài tha thướt dập dìu,
Màu hoa cà tím mỹ miều nhởn nhơ.

Em là Gài Gòn, em là kỷ niệm, em là ngày sáng nắng bừng lên ở phía chân trời quê mẹ. Còn ta, Việt Dương Nhân, thường đêm thao thức nơi quê người, ngồi viết một mình, một bóng :

Ta còn ngồi viết mấy dòng,
Cho vơi đi bới nỗi lòng nầy đây !

Bạn đọc yêu thơ Việt Dương Nhân, qua Bốn Phương Chìm Nổi, còn tìm gặp được một tâm hồn sau bao đau thương vẫn :

Bây giờ còn mộng với mơ,
Dệt lên được mấy vầng thơ cuối đời.

Nhưng tới Cát Bụi, chúng ta chỉ thấy một Việt Dương Nhân thanh thản, không buồn vui, không mơ mộng, thoát ra khỏi được ảo ảnh ‘’chấp ngã’, vươn tới một không gian rộng lớn :

Cố gắng vượt qua lượn sóng đời,
Vượt luôn giông bão giữa trùng khơi
Thân còn hiện hữu trong trời đất,
Bốn bể lanh quanh thế mà thôi...!

Nếu không tự giải thoát được, theo Việt Dương Nhân, ngôi nhà cũng như cuộc đời, khi cuộc vui tàn, tiếng đàn, giọng hát lắng ngưng, những người khách xa dần rồi khuất hẳn, chỉ còn trơ lại chủ nhà với nỗi buồn nhiều hơn trước khi có cuộc vui :

Đêm nay nhà thật là vui,
Đàn ca ngân hát, ôi thôi tưng bừng.
Cuộc vui nào, khỏi tàn ngưng ?
Mình ta còn lại, bỗng dưng thấy buồn.

Không chỉ cuộc tình, mà toàn bộ cuộc sống, tự thân nó đã là Cát Bụi. Anh và em, ở đây, như bản thể và tha nhân, mình và người, giữa nhà thơ và sự mơ mộng chỉ còn lại sự nhớ thương :

Tỉnh rồi, anh biến đi dâu ?
Để em ở lại ôm sầu nhớ thương.

Nguyễn Hữu Nhật
***

Thay lời tựa thi tập
"Cát Bụi"

của Việt Dương Nhân

Tôi từ đâu đến đây không biết
Về nơi nao Cát Bụi chẳng hay
Thân chuyển mãi vòng quay bất tận
Tâm một viền trăng sáng đâu lay...

*

Cảm ơn bạn đọc thơ tôi
Tiếng lòng của kẻ bồi hồi nhớ quê
Cánh đồng im lặng tái tê
Cánh chim lẻ bạn bay về chiều xưa

Trên bờ ao cũ nắng thưa
Tiếng cười trẻ dại bây giờ còn vang
Dù đời sớm gặp phũ phàng
Cha đi kháng chiến, mẹ sang thuyền người

Tuổi thơ chiếc bóng bên trời
Khuya lau nước mắt sầu đời bạc đen
Đêm mong soi tỏ ngọn đèn
Để coi chiếc bóng mình quen một mình

Thơ tôi là cõi lặng thinh
Chung quanh thiếu một cái tình người ta
Năm mười hai tuổi rời nhà
Bước chân mỗi bước xót xa phận nghèo

Phố phường bước nhỏ mừng reo
Đầu đời tinh lỡ buồn theo tháng ngày
Trước sau trắng hai bàn tay
Hai bàn tay trắng vốc đầy thương yêu

Thơ tôi chiếc lá cuối chiều
Rụng bay đất khách nghe nhiều đắng cay
Cánh sen bùn lắm phương nầy
Vẫn mơ phương ấy vòng tay mẹ hiền

Chỉ mong đời bớt đảo điên
Mười phương Phật độ bình yên nẻo về
Thương mình khi tỉnh, lúc mê
Chập chờn hư, thực lạnh tê một đời

Cảm ơn bạn đọc thơ tôi
Bốn Phương Chìm Nổi người ngồi tĩnh tâm
Tiếng đàn, giọng hát, lời ngâm
Chỉ như bè nổi âm thầm qua sông

Tới bờ vắng lặng hư không
Buồn vui của những chuyện lòng sớm quên
Bởi chính hồn mình chưa yên
Hỏi thân Cát Bụi ưu phiền sao qua

Thơ tôi cảm tạ gần xa
Tấm lòng tri kỷ nở hoa sen vàng.

*

Tạ ơn các bạn gần xa
Đem lòng thương mến tặng hoa bằng lời
Mai sau mỗi người một nơi
Hương thơm còn gởi lại đời mến thương

Nguyễn Hữu Nhật
(Na Uy, Oslo 1/1999)

Em Là THƠ



Em Là THƠ

Em là THƠ, đã đưa tôi
Qua sông, qua những núi đồi hiểm nguy
Lòng này luôn mãi khắc ghi
Nhờ em tôi được tứ thi giải sầu.
.........!
vdn



*

EM LÀ THƠ
Viết cho nàng Mai Ly,
Tặng vdn.

Em là hoa của nhiệm mầu,
Ươm thơ tươi thắm ,dạt dào ý xuân .
Em là mái tóc giai nhân,
Dệt thiên tình sử, muôn phần diễm trang.

Em là hoa của núi ngàn,
Gửi mây cho gió, thêm hương cho đời.
Trăng tà bóng xế mây trôi,
Em còn thơ thẩn, bên trời thở than ?

2

Thì thôi em, mộng phù vân .
Trăm năm thôi cũng có ngần ấy thôi .
Gặp nhau một thoáng bên trời,
Tiễn nhau một thuở, trọn đời tiếc thương .

Sông kia rồi cũng xa nguồn,
Bên dòng nước chảy, cánh buồm xa xa.
Nàng từ gió táp mưa sa ,
Tấm thân đào liễu, như hoa bềnh bồng

3

Thương thay một kiếp má hồng,
Thuyền tình sóng vỗ, giữa dòng lênh đênh.
Bên bờ vực thẳm vô minh ,
Tấm thân cát buị, như hình phù du.

Đêm nằm xõa tóc hoang vu,
Sương rơi nặng hạt trăng thu đầu ghềnh.
Nàng về gõ mõ tụng kinh,
Bồ đề Tịnh độ, một cành hóa duyên.

4

Sen vàng đậu cánh hoa đêm
Sang xuân có kẻ bên thềm dõi trông.
Ngày xưa má thắm, môi hồng,
Hạ khoe áo đỏ, bềnh bồng tóc mây.

Thu về chuốc chén rượu say,
Sang Đông còn rạng, hoa bay nét cười.
Ngày Xuân có kẻ sang chơi ,
Câu thơ nét nhạc, bên trời hàn sương

5

Một mai đời cũng vô thường,
Cầm như con én lượn vòng mà thôi.
Chiêm bao dỡ khóc dỡ cười,
Tỉnh ra thức giấc, bồi hồi nhớ trông.

Từ em bỏ phố theo chồng,
Con chim thôi hót, trong lồng ngẩn ngơ.
Người về lối cũ hang sơ,
Dấu hài xưa đọng bên bờ trúc mây.

6

Sương đông trĩu cánh hoa gầy,
Nửa đêm con nhạn lạc bầy kêu sương.
Canh khuya giấc điệp mơ màng,
Sáng ra thức dậy vô thường sắc không.

Trông vời trời đất mênh mông,
Quê cha đất mẹ, ngày trông mai chờ.
Đêm buồn nhặt cánh thư xưa,
Chép dòng dư lệ, cũng rời rạc hoa.
7

Nàng về tắm giọt mưa sa,
Tìm trong kỷ niệm ánh tà huy bay.
Ta về nhặt nắng hiên tây,
Gửi hương cho gió gửi mây cho ngàn.
Gửi thơ cho khắp nhân gian,
Con tằm vẫn kiếp con tằm vương tơ…
Ai đem tơ dệt thành thơ ,
Ai đưa con sáo bên bờ sang sông ?

8

Em từ bỏ xứ tha hương,
Dấu xưa xe ngựa, phố phường vào thu.
Đêm về nhỏ lệ thành thơ,
Bao năm sầu đọng, úa tờ thư xanh .

Con chim nó hót trên cành,
Em thay áo mới, áo xanh da trời .
Thu vàng bóng nguyệt đầy vơi,
Nhìn trăng có kẻ, bên trời ngẫn ngơ.

9

Nàng về gõ cửa Chân Như ,
Khép trang huyễn mộng, giã từ phồn hoa.
Từ em giũ áo ta bà,
Tóc mây xưa cũng theo tà huy bay .

Trăng về ngõ trúc hiên tây ,
Vàng thu mấy độ, hoa gầy liễu nghiêng .
Từ em thắm đượm mùi thiền,
Sáng qua Vô Ngã, tối miền Hoa Nghiêm .

10

Nhẹ tênh quên hết ưu phiền ,
Muối dưa rau quả, tùy duyên tháng ngày .
Mắt em hiền tựa Như Lai ,
Môi em nở nụ, như ngày mới quen.

Hoa lòng đẹp tựa hoa sen,
Tay lần tràng hạt, TÂM nghiêng bồ đề .
Thuyền từ lạc khỏi bến MÊ
TRĂM NĂM MỘT CÕI, ĐI VỀ CÓ KHÔNG .

Dương Lam

Đấng Anh Thư

Đấng Anh Thư

Nghĩ thương cho chị phận đàn bà
Tự thủa thiếu thời đã vắng cha
Nước mất, đành xuôi giòng viễn xứ
Tha hương, lòng luôn hướng quê nhà
Xả thân tranh đấu cho Dân Tộc
Dũng cảm quên mình bởi Quốc Gia
Bao nỗi gian nan không khuất phục
Tiếng thơm vang dội khắp sơn hà

Naïve

Kính tặng Nữ Sĩ Việt Dương Nhân


 ***

 "Cộng sản còn thống trị trên quê hương - Ta còn phải đấu tranh"

Chết Vì Tình



Việt Dương Nhân
Chết Vì Tình

Anh,

Trời vừa vào thu, cây cỏ u buồn, gió lay lay làm cho vài chiếc lá vàng rơi rụng đầy dưới sân nhà. Mây xám giăng giăng che phủ hết những tia nắng mặt trời. Anh ơi ! Em nhớ Anh vô cùng. Và trạnh lòng nhớ lại những điều may mắn mình được - Và cũng nhớ nỗi buồn đau chợt đến năm xưa...

Lối 10 giờ sáng ngày 21 tháng 3 năm 1984 (ngay ngày vào Xuân) - Mới hơn một năm chúng mình quen nhau.
Hôm ấy, em vừa thức dậy đang sửa soạn để đi xuống Angers gặp Anh. Bỗng tiếng chuông điện theo reo vang... Em vói tay nhấc lên :
- Allo ! dạ, tôi nghe !
Nghe giọng nói nghẹn ngào của Anh đầu giây :
- Em đó hả ? P. con Anh đã tự tử chết rồi.
Em như người trên trời rơi xuống đất, vội vàng hỏi Anh :
- Anh đang ở đâu?
- Anh đang ở phi trường Nantes, chút em lên phi trường CDG rước Anh về phi trường Orly....
- Dạ vâng ! Dạ vâng !
Sau khi nói chuyện ngắn gọn với Anh - bỏ điện thoại xuống, hồn em như đang lơ lửng trên mây. Em vội vàng đi đốt nhang-đèn để Kinh "Cầu Siêu" cho vong linh của P. sớm tiêu diêu nơi miền Cực Lạc. Rồi em thay đồ và trực chỉ lái xe lên phi trường "CDG".
Trong lúc Anh có trong tay "tình-tiền-danh vọng" đầy đủ, công việc làm ăn phát đạt... Thì tai nạn lớn lao nhứt đời Anh là, P. con trai duy nhứt vì "bị tình phụ" mà tự tử chết một cách đau đớn (thắt cổ). Thế mới biết : "Chữ tài liền đến chữ tai".
Nhắc tới đây, em thương và tội nghiệp Anh quá. Nhưng em hơi trách Anh một chút. Vì Anh không nghe lời khuyên của em. Là nhấc điện thoại lên gôi S., Anh làm bộ mời S. đến djéng cơm cuối tuần chung với gia đình Anh. Như vậy mới vuốt tự ái Cô ấy. Vì chính Anh mắng S. trước đó. Em khuyên Anh, nếu thương con thì hãy bỏ hết tự ái để cứu con mình. Nhưng Anh cứ khăng khăng không chịu làm như lời em khuyên. Vậy thì Anh cũng có phần trách nhiệm cái chết của P.
*
Hơn một năm sau...

Vì thương nhớ P. Anh buồn khổ và đau đớn, đến cả năm sau vẫn còn rơi mắt khi có dịp nhắc đến P. - Em an ủi Anh, cho đó là số mệnh - Nhưng Anh lại nằn nặc đỗ thừa, chính S. giết con Anh. Anh nói với em, nếu Anh gặp S. thì Anh sẽ bóp cổ S. cho đến chết. Nghe vậy, em rất lo sợ - Vì em biết Anh có đủ bản lãnh làm việc ấy - chớ không phải chỉ ham dọa thôi.
Rồi Thượng Ðế khiến xuôi đưa đến một chuyện rất hy hữu trên đời. Thời cơ hội, Em đem Anh ra khỏi cảnh thù hận... và từ đó Anh sống êm đềm.

*

Anh,

Xuân-Hạ giao mùa, vào đầu tháng 6 năm 1984, miền Nam nước Pháp đã bắt đầu nắng gắt... Anh và em đi xuống Tỉnh Perpignan để gặp vài khách hàng. Chúng mình ở khách sạn "NOVOTEL". Hôm ấy mình ăn cơm trưa xong, em nhìn ra sân thấy trời nắng đẹp. Em lên phòng thay áo tắm ra piscine thoa kem ngồi phơi nắng. Anh cũng lên phòng thay quần sọt lang thang đi xuống tay cầm tờ báo "Figaro". Anh đến bàn có vươn dù, ngồi đọc báo. Bất chợt, em nhìn sang thấy hàng chữ lớn phía sau :"... Thay mặt Thượng Ðế, vợ chồng chúng tôi đồng lòng tha thứ cho... người đàn ông trẻ (un jeune homme) đã giết con gái "duy nhứt" của chúng tôị..". Em muốn toát mồ hôi lạnh, vội vàng chòm tới :
- Anh cho em mượn tờ báo coi !
Anh giật mình, không biết chuyện gì ? Vì Anh chỉ lo đọc ba cái tiền tệ, cổ phần thế giới (CAC40 = Stock = Cổ phần...) của Anh thôi. Còn những tin tức khác Anh ít khi đọc - Anh nghe em nói mượn tờ báo, Anh liền hỏi !
- Cái gì mà em hoảng hốt dữ vậy ?
- Không. Không. Em không có hoảng hốt... mà... mà tuyệt vời ! tuyệt vời ! Trời ơi ! Hay quá ! Hay quá !...
Anh trao cho em tờ báo, em cầm lên mà hai tay em run run, từ từ đọc... Ðọc xong em quay sang nhìn Anh và thương Anh vô cùng, em nói :
- Anh xem nè ! Hai vợ chồng ông bà... người Hòa Lan này (chỉ hình), ra Tòa Ðại Hình nói lời tha thứ cho kẻ đã giết con của ông bà ta đãy - Anh đọc đi...
Anh liền hỏi em :
- Tại sao họ lại làm được cái chuyện đó ?
- Thì đây nè, Anh đọc đi !...
- Em đọc lớn cho Anh nghe ...
Em cười cười :
- Ðược rồi, em đọc đây :
"... Chú rể tương lai, giết chết vị hôn thê bằng dợi dây băn-đờ-rôn để thắt nơ thắt tuội cho những chiếc xe hoa đến dự đám cưới ngày hôm sau... Hôm qua ra Tòa Ðại Hình, Cha Mẹ cô gái đều đồng lòng tha thứ tội cho cậu rể "hụt" - Ông Bà... đứng lên biện hộ cho tội nhân giết con gái mình, bằng những lời thực tế và hiếm có ai có thể làm được chuyện này ở trên thế gian. Ðây lời là những lời nói rất bình tỉnh - đầy lòng vị tha của Ông Bà... "... Chúng tôi biết chắc chắn, con gái của chúng tôi phải làm một điều gì cho cậu... đau đớn ghê gớm lắm, nên cậu... mới giết con tôi - Chớ không bao giờ khi không mà cậu... làm chuyện này... ".
Em kể tiếp nữa nè :
"Tiếng vỗ tay ầm lên cả căn phòng có khoảng hơn 1 trăm người đến theo dõi... Ông còn quay sang về phía gia đình và thân hữu của tội nhân, gật đầu như có ý xin lỗi. Ông ngước mắt nhìn lên trần nhà và nói tiếp : "Vợ chồng chúng tôi, xin thay mặt Ðức Chúa Trời hoàn toàn tha thứ cậu... Cậu không có lội gì cả. Xin Thiên Chúa hãy rước linh hồn con gái tôi về với Nước Chúa...". (tác giả tạm dịch từ Pháp ngữ).
Em nhìn thấy Anh im lìm mà hai hàng nước mắt tuôn rơi - Em biết Anh đang nghĩ đến P, con trai duy nhất của Anh.
Cơ hội ngàn vàng em không thể nào bỏ qua được. Em cố gắng giải tỏa nỗi căm thù Anh mang nặng với S ra khỏi lòng Anh. Em kéo ghế xít lại gần sát bên Anh, và em ôm mặt Anh hôn lên đôi mắt, đôi mắt Anh lúc nào cũng buồn buồn và có gờn gợn nỗ thù căm. Bắt đầu em giảng giải :
- Anh hãy nên tha thứ cho S - Ph, con trai Anh quyết lòng tự tử chết là để chứng minh tình yêu bất diệt của nó cho S - Trên cõi đời này, Ph có tất cả nhưng chỉ thiếu S là đời nó không còn ý nghĩa gì để sống nữa.
Anh vẫn im lặng, mà nước mắt cứ tuôn. Em nắm cơ hội này, nói tiếp luôn :
- Anh còn nhớ năm rồi chăng ? Anh cũng lụy tình vậy... Ph giống Anh lắm đó (?)... Năm rồi, vì Anh quá yêu em, Anh như thế nào, Anh còn nhớ không ? Nay Ph vì tình mà chết. Em rất khâm phục Ph - và em thường khâm phục bất cứ trai hay gái mà dám chết vì "tình" - Và đây, ngày hôm nay có sự việc này, câu chuyện đầy thương tâm, tràn trề lòng nhân mà gia đình nạn nhân lại thâm hiểu; vì sao mà xẩy ra án mạng như thế, thật là "hy hữu" đó Anh ! Cha Mẹ của cô kia tha thứ kẻ giết con của mình, họ tha thứ được - Còn đàng này Ph, con Anh nó tự hủy mình để chứng tỏ là Ph yêu S nhất đời, Ph dám chết vì tình thật là can đảm và cũng yêu chân thành S.
Chắc chắn trong lòng Ph nghĩ :

"Ðời Anh Không Có Em Là Ðời Không Còn Ý Nghĩa Ðể Sống Nữa... ".

Em để ý thấy Anh đưa mắt nhìn về phía xa xăm, như đang suy nghĩ... Em đoán, có lẽ Anh nói thầm với con trai mình : « Ph. ơi ! Ba đã hết thù S, người yêu của con rồi ! ». Thật sự từ đó đến sau này (hơn 20 năm) Anh không còn nhắc tới Sylvie, và không còn đòi bóp cổ Sylvie nữa.
Tạ ơn Trời Phật !

Việt Dương Nhân
23.9.2005 


Tiễn Bước Chân Ai - ( Kính mến tặng Việt Dương Nhân )

Tiễn Bước Chân Ai
( Kính mến tặng Việt Dương Nhân )


Mùa vàng bay lá thu theo chiều gió.
Tôi thẫn thờ lối ngõ cũ đường quen.
Chốn tịch liêu nhà lặng không đèn.
Đêm xóm vắng.
Nỗi buồn len trĩu nặng.

Chợt nghe xót thương.
Cuộc đời vị đắng.
Nặng bước buồn nơi thôn vắng chiều nay.
Quán chia ly.
Đời hết xum vầy.
Vòng tay ấm từ đây thôi giã biệt.

Tôi trở lại nơi này.
Trời mây không còn xanh biếc.
Mảnh đất sầu hồn Việt hoang vu.
Đường tương lai xa tít nẻo mù.
Nghe rờn rợn lời ma tru sói gọi.

Người xa rồi.
Tôi cô thân chống chọi.
Bao hung tàn.
Tôi mọi.
Vong nhân.
Nẻo buồn tênh đếm bước phong trần.
Nhân Trí Dũng.
Là dân tôi không nhụt chí.

Hạng thấp hèn cố xóa đi Chân Thiện Mỹ.
Kẻ a dua đánh mất trí còn đâu.
Ai nghe chăng?.
Tiếng nấc cơ cầu.
Phận nô lệ.
Chư hầu phương Bắc.

Đỉnh danh lợi bán lương tâm.
Theo giặc.
Thế luân hồi gieo gió gt bão thôi.
Lời dối gian xu nịnh bờ môi.
Có hổ thẹn bởi suy đồi tâm kẻ sĩ.

Thế Nước non đến hồi cực bĩ.
Đời đau thương ma quỉ lộng hành.
Gian hùng.
Lừa lọc.
Hôi tanh.
Kiếp bạo chúa.
Phút tàn canh sẽ đến.

Thôi giã biệt đấng anh thư tôi mến.
Ngõ cuộc đời .
Có khi đến ắt phải có khi đi.
Vng chí niềm tin.
Dấu lệ phân kỳ.
Cõi ô trọc có chi là trường cửu.

Nguyên Thạch

CẢO THƠM BÓNG CHỊ (Thân tặng Việt Dương Nhân)

CẢO THƠM BÓNG CHỊ
(Thân tặng Việt Dương Nhân)

Cha Mẹ đi về Chị đừng đi
Em thơ ngây đất khóc biết gì
Hồn sông xác núi rêu xanh đói
Đứt ruột ve sầu bóng sinh ly

Thương Chị lòng thiền lòng quê hương
Dở dang nghiên bút vút lên đường
Đội trời đạp đất phù sa mộng
Gửi thơm quê Mẹ nuốt đau buồn

Hoa trôi bèo giạt hoa tuyết bay
Hương áo sương mù gót trần ai
Kinh đô ánh sáng mờ dư lệ
Nữ trung hào kiệt lỡ đầu thai

Sinh bất phùng thời hoa khổ qua
Gươm thiêng phục hổ không hàng ma
Đi về lủi thủi đèn không bóng
"Vận khứ anh hùng ẩm hận đa" (1)

Gửi Chị bông sen trắng quê mình
Mặc mưa mặc gió mặc vô tình
Đổi đời ong độc hoa bướm độc
Rửa ruột sạch trơn cầu chân kinh (2)

Xin Chị đừng đi đừng buồn đau
Tang thương mất gốc vẫn còn rau
Mình về mót giống trồng khoai bắp
Con cháu ấm no mãi nghìn sau

Mai vàng Bình Chánh trăng sao (3)
Cảo thơm bóng Chị ngọt ngào ...Chị ơi !

MD.06/17/2009
Luân Tâm


____________
(1) Hai câu thơ bất hủ tuyêt tác cuả danh tướng Đặng Dung thời Hậu Trần, trong bài " Cảm Thuật ":
"Thời lai đồ điếu thành công dị
Vận khứ anh hùng ẩm hận đa"

mà Cụ Trần Trọng Kim đã dịch là:
"Bần tiện gặp thời lên cũng dễ
Anh hùng lỡ bước ngẫm càng cay"

(2) Hai câu thơ tuyệt vời thâm thuý cuả Cụ Nguyễn Đình Chiểu trong Truyện Lục Vân Tiên:
"Nước trong rửa ruột sạch trơn
Một câu danh lợi chi sờn lòng đây"

(3)"Bình Chánh":Tên một quận thuộc tỉnh Gia Định,là quê cuả Nữ sĩ Việt Dương Nhân.


CẢM NHẬN VỀ TRUYỆN DÀI "MAI LY" CỦA CHỊ VIỆT DƯƠNG NHÂN

CẢM NHẬN VỀ TRUYỆN DÀI "MAI LY" CỦA CHỊ VIỆT DƯƠNG NHÂN


Việt dương Nhân là bút hiệu của nữ nghệ sĩ Quốc Hương (Paris). Nghệ sĩ Quốc Hương có một điều đặc biệt khác với những nghệ sĩ khác ở chỗ chị vừa là kịch sĩ, vừa là thi sĩ và vừa là văn sĩ. Chữ "sĩ" dính với cuộc đời giống như chữ "tài", vì nó đòi hỏi phải có một năng khiếu nào đó. Như Đại Thi Hào Nguyễn Du đã từng có câu : "Chữ tài liền với chữ tai một vần". Nghiệm lại, độc giả thấy đúng thật ! Nàng Thúy Kiều của Nguyễn Du vừa đẹp, vừa tài, và phải chịu biết bao đoạn trường cay đắng. Ở đây, thời đại này, chúng ta cũng có một nàng Thúy kiều cũng duyên dáng, cũng tài và cũng chịu biết bao nhiêu đau khổ mà cuộc đời đã đưa tới cho nàng. Độc giả muốn nói đến nàng "Mai Ly" trong truyện dài mà nữ văn sĩ Việt Dương Nhân đã dùng cây bút để viết lại một cách tuyệt vời cuộc đời đau thương tủi nhục của Mai Ly hay của chính tác giả.

Truyện dài "Mai Ly" gồm 3 tập đã nói lên được nếp sống xô bồ của xã hội, rất tình tiết éo le, khúc mắc. Tác giả đã tạo được những say mê, thích thú cho độc giả. Lời văn giản dị, lưu loát với những câu đối thoại thật tự nhiên, không gượng ép, làm độc giả không bị nhàm chán, và rất hồi họp đọc từ đoạn này sang đoạn khác...... cho đến hết. Tác giả đã tuôn ra tất cả những gút mắc, những nỗi niềm của lòng mình.

Truyện sống động và thật... đến nỗi tác giả đã rất thành công làm độc giả phải rơi lệ, xót thương thân phận lạc loài côi cút cho một bé gái mới 12 tuổi đã mất Cha, sống xa Mẹ, bị đời ruồng bỏ, bị chị dâu đánh đập tàn nhẫn . Độc giả lại phải tiếp tục rơi lệ cho Mai Ly lúc bị đời gạt gẫm, bị hất hủi, bị người phụ tình vì mang cái tội nghèo . Cái chân thiện mỹ trong con người của tác giả đã tạo nên những truyện có kết cục đẹp, đầy lòng nhân đạo và luân lý đạo đức, đã làm cho độc giả rất mãn nguyện khi đọc xong truyện dài "Mai Ly" nói riêng, và nhiều truyện ngắn khác của tác giả, nói chung. Một cái đặc biệt khác của truyện "Mai Ly" là những câu thơ giới thiệu, dẫn chứng thật hay, thật sát ý với cốt truyện. Loại truyện đi kèm với thơ như vậy rất là hiếm có. Tác giả đã nổi bật trong cách trộn cả thơ cả văn này.Truyện dài tác giả viết giống như một truyện phim. Độc giả nghĩ nếu truyện này mà đem đóng thành phim thì chắc sẽ gặt hái được số người đi xem rất nhiều .

Tóm lại, truyện dài này quả là một tuyệt tác mà tác giả đã bỏ hết tâm huyết để hình thành. Truyện "Mai Ly" xứng đáng là một tác phẩm văn học giá trị, đáng để cho chúng ta lưu giữ và trân trọng .

UPMN xin tặng văn thi sĩ Việt dương Nhân những câu thơ mộc mạc dưới đây :


THƠ TẶNG CHỊ VIỆT DƯƠNG NHÂN

Mặn mà duyên dáng tuyệt vời

Quốc Hương nghệ sĩ người đời mến thương
Sắc tài sáng rực như gương
"Thúy Kiều" thời đại sầu vương phủ đầy
Tánh tình nhân hậu thẳng ngay
Dù đời vùi dập không lay lòng thành
Thơ văn ca hát lừng danh
Đoạn trường bao nỗi cũng đành vương mang
Cầu mong ngày mới sang trang
Điểm tô hồng thắm đời nàng từ đây
Việt Dương Nhân đã đắp xây
Giúp người hạnh phúc ngập đầy tình thương .

Uyên Phương Minh Nguyệt

NS Nhân Bản (Paris) : Phỏng vấn một tiếng đồng hồ với Thi Sĩ Việt Dương Nhân

Báo Nhân Bản (Paris) đăng bài này gần 10 năm qua (11/1998) mà 7 mới ngồi đánh máy lại chiều nay.

Phỏng vấn

Một tiếng đồng hồ với Thi Sĩ Việt Dương Nhân


Nhân Bản (NB) : Xin chào thi sĩ Việt Dương Nhân. Từ gần hai thập niên qua, đồng bào tại hải ngoại biết đến bà qua các bài thơ được đăng tải trên các báo Việt Nam Tự Do Hải Ngoại, Tiếng Dân, Á Châu, Y Giới, Văn Tiến, Đất Nước, Ép Phê và Nhân Bản ...
Ngày 25 tháng 10 vừa qua, bà đã cho ra mắt tập thơ Bốn Phương Chìm Nổi . Xin bà vui lòng cho độc giả Nguyệt San Nhân Bản biết đôi điều về tiểu sử và thân thế của bà...

Việt Dương Nhân (VDN) : Tôi tên thật là Nguyễn Thị Phụng Hoàng, ngày sinh 11.08.1946. Vì lý do đặc biệt. Sau đổi khai sinh lấy tên Nguyễn Thị Bảy với một ngày sinh khác là 12.10.1945... Quê tôi ở Bình Chánh - Gia Định. Lấy chồng Pháp năm 1967 tại Sài Gòn và có hai con. Tháng 11 năm 1975, tôi cùng chồng và hai con hồi hương về Pháp ... Hiện nay tôi là công nhân của một hãng Horticulture ...

NB : Bà có thể cho chúng tôi biết đôi dòng về quá trình sáng tác văn chương cũng như động cơ đã thúc đẩy bà đến với văn chương, thi phú ?

VDN : Thật ra, như tất cả những người Việt Nam... Tôi mê thơ từ thuở cập kê, có nghĩa là vào lứa tuổi 12, 13. Cũng bắt đầu từ ấy tôi tập tễnh làm thơ.
Ngày 25 tháng 4 năm 1975, nhật báo Trắng Đen của anh Việt Định Phương đã đăng bài tùy bút của tôi với hàng chữ in đậm : « Một người đàn bà Pháp gốc Việt bằng lòng nhận lãnh 19 triệu viên đạn để đổi lấy quê hương thanh bình » . Đó là một khích lệ lớn khiến tôi tiếp tục viết và làm thơ đến ngày nay. Ngoài tập thơ Bốn Phương Chìm Nổi đã ra mắt, tôi hy vọng có thể trình làng vào một ngày gần đây tập thơ thứ hai với tựa đề Cát Bụi, 4 tập truyện ngắn Gió Xoay Chiều, Ngoại Tình, Chuyện Đời, Hoa Bướm Về Đêm và bộ trường thiên tiểu thuyết Mai Ly.
Tôi còn nhớ, vào năm 1976, xa quê hương đã gần một năm trời, nỗi nhớ nhung ngút ngàn, cứ y như muốn trào lên khóe mắt. Vì thế, tôi đã làm bài thơ Về Đất Mẹ, cũng là bài thơ đầu tay của tập thơ Bốn Phương Chìm Nổi. Tiếp theo sau là bài Quà Xuân Gởi Các Anh Phục Quốc, là bài thơ đầu tiên được đăng trên nhật báo Trắng Đen vào năm 1977 ...

NB : Nói về thi phẩm Bốn Phương Chìm Nổi, đó là một tập thơ với hơn 100 bài thơ và 7 bài vọng cổ gồm có nhiều hồn : Quê Hương, Thân Phận, Tình Yêu và Đạo Lý . Đây là quyển sách nhỏ gói ghém tất cả tâm sự của đời bà ?

VDN : Vâng ! Bài thơ đầu tiên tôi viết là vào năm 1976. Tôi đã soạn lọc, viết lách trong gần 22 năm mới hoàn thành ! Riêng về hồn thơ, đúng như anh nói, sau những năm đầu xa quê hương, thương gia đình, nhớ bạn bè, hận cộng sản đem chủ ngoại lai tàn sát đồng bào và gây cảnh chia ly tang tóc, lúc ấy tôi chỉ làm những bài thơ chống cộng, cổ võ công cuộc đấu tranh phục quốc.
Dần dà, thời gian lặng lẽ trôi qua, mình vẫn đắng cay mang nặng số phận làm dân nước người, với tất cả nhục nhằn đau khổ của kiếp sống thê lương. Nào là chua xót số phận đất nước, nào là tội nghiệp cho thân phận mình làm cánh bèo trôi dạt tứ phương. Sau lần đổ vỡ tình cảm gia đình, thơ bỗng trở thành người bạn duy nhất có thể ngồi đó hàng đêm để nghe mình thét gào, than thở …

NB : Thơ là cứu cánh duy nhất để bà trút cạn nỗi niềm …

VDN : Đúng thế , thơ là một cái gì đó rất nhiệm mầu, có thể chứa đựng tất cả những nỗi bất hạnh ghê gớm nhất của thế gian này ! Thơ cũng là một cách giải bày tất cả suy nghĩ, ưu tư, hoài bão … Ví dụ như với bài Chúc Xuân Cho Mẹ, tôi mơ ước sẽ có một ngày tôi sẽ trở Việt Nam phất lại ngọn cờ vàng, ngọn cờ của Tự Do hầu mang lại niềm vui cho trăm họ. Và ngồi đấy cầu nguyện những cánh mai vàng - cờ vàng ba sọc đỏ - sẽ nở rộ khắp quê hương.
Một bài thơ khác mà tôi cũng thích, đó là bài Rừng Đêm, viết vào một đêm đông giá lạnh năm 1979, giữa rừng đêm muôn thú với một tấm lòng đầy rẫy vết đau thương sau lần hạnh phúc gia đình bị tan vỡ :
Rừng đêm hoang vắng ai quân tử ?
Dám nhặt hoa tàn trong gió mưa !


Một bài khác là bài Mẹ Việt Nam, đã được đăng tải trên các tờ báo hải ngoại từ 1979 cho đến nay :

Mẹ ơi ! Hỡi Mẹ Việt Nam !
Đàn con của Mẹ sẽ về ngày mai …


Những bài thơ về Đạo bắt đầu xuất hiện sau năm 1984, năm tôi vào Đạo Phật sau một đại nạn để an ủi cho đời mình.

NB : Theo chúng tôi được biết, ngoài bút hiệu Việt Dương Nhân, bà còn có rất nhiều bút hiệu khác như Quốc Hương, Việt Quốc Hùng, Thanh Thiên Tâm … Bà có thể cho biết ý nghĩa và xuất xứ của các bút hiệu ấy ?

VDN : À, vào năm 1976, tên Việt Dương Nhân đã được tôi chọn với hậu ý nối tiếp con đường mà anh Việt Định Phương chủ bút tờ Trắng Đen đã vạch ra … Việt Dương Nhân có một ý nghĩa rất đơn giản là NGƯỜI VIỆT NAM DƯƠNG TRẦN.

Vào ngày 11.06.1977, tại chùa Khánh Anh, anh Nhựt Thanh (LTS : Nhựt Thanh chính là ca sĩ Trường Thanh hiện tại) viết bài Tình Đời Nghĩa Đạo, ý nói rằng đất khách quê người chúng ta không thiếu thứ gì trên phương diện vật chất. Chúng ta có đầy đủ nhà cao cửa rộng, ăn ngon mặc đẹp … Thế nhưng tất cả đều vô nghĩa khi ta không còn tổ quốc, quê hương. Tên Quốc Hương từ đấy mà có, do sự ghép nối hai chữ Tổ Quốc và Quê Hương, chứ không phải là quốc sắc thiên hương như một số người thường lầm .

Một buổi chiều buồn mùa thu năm 1986, trong lúc đang ngồi tịnh tâm, tôi chợt thấy một bầu trời trong xanh, rồi những chùm sao và ánh trăng vàng sáng rực. Tên Thanh Thiên tâm có từ đó …

Cuối cùng, Việt Quốc Hùng là do sự tự hào về quê hương của tôi, của tất cả đồng bào tôi : Nước Việt Nam Tổ Quốc Anh Hùng.

NB : Để kết thúc cuộc phỏng vấn hôm nay, xin bà cho biết cảm tưởng của bà sau sự thành công của buổi ra mắt tập thơ Bốn Phương Chìm Nổi ngày 25 tháng 10 năm 1998 vừa qua ? (LTS : Buổi đọc - Ngâm thơ đã quy tụ được trên dưới 200 người).

VDN : (suy nghĩ) … Toại nguyện. Yêu thơ từ thuở bé, hơn nửa đời sau mới ra mắt được tác phẩm đầu tay ! Tôi có thể nói mà không ngượng ngùng : Đây là là lần đầu tiên tôi có cảm tưởng làm một việc được thành công, lần đầu tiên đi học mà tôi … thi đậu, đậu Trường Đời. Vì thế, tôi vẫn thường đùa đùa rằng : Mình học trường Sài Gòn và Ba Lê chưa hết lớp !!! Đây cũng là cơ hội để cho tôi biết được rằng xung quanh tôi còn có nhiều người thương mến.

Tôi cũng xin gởi lời cám ơn đến tất cả các bạn bè, thân hữu đã đến với tôi trong ngày ra mắt tập thơ đông đảo như thế. Đặc biệt, tôi xin chân thành cám ơn giáo sư Võ Thu Tịnh, ký giả Tô Vũ, nhà văn Hồ Trường An, soạn giả Trần Trung Quân, nhà thơ Đỗ Bình, nữ sĩ Bích Xuân, và còn biết bao bằng hữu, nghệ sĩ tân cũng như cổ nhạc đã giúp đỡ, cổ động tôi trên con đường tìm về văn chương dân tộc.

(Nhân Bản - Bộ Mới số 25 – Tháng 11 năm 1998)




Truyện ngắn : Bến Xưa (vdn)




Bến Xưa

Thường ngày, khi hoàng hôn vừa tắt nắng tiếng dương cầm trầm bổng trổi lên bản nhạc "Lettre à Élise" của Beethoven. Và đôi khi người ta còn nghe tiếp bản nhạc "Những Lá Thư Tình" của nhạc sĩ Anh Huy. Tiếng đàn êm dịu phát ra từ vi-la "Nhựt Yên" nằm cuối đường Balzac, khu nhà mới xây cất chừng mười năm nay, trong vùng Bussy-Saint-Georges cách Paris khoảng ba mươi cây số của đôi vợ chồng người Việt. Họ dọn về đây mấy năm nay mà không làm quen hay giao thiệp với bất cứ ai trong xóm. Những người hàng xóm rất lấy làm lạ, thường xúm lại hỏi nhau :"Hai vợ chồng người Á-Châu kia. Họ là ai ? Làm nghề nghiệp gì ? Mà cuộc sống của họ có vẻ kín đáo và bí mật thế ?"...

*
... Đầu thiên niên kỷ thứ ba, vào một đêm cuối tuần của mùa đông buốt giá, tuyết rơi trắng xóa bao phủ cả trời Tây. Ông Phạm Tân Nhựt, cựu Giáo Sư trường Đại Học... Paris..., sống độc thân trong một căn appartement ba phòng khá khang trang gần Công-Trường Madeleine quận 8 Paris. Ông rất nghiêm trang, đứng đắn. Tuổi ông đã quá lục-tuần, nhưng trông ông trẻ hơn tuổi, dáng vóc cao ráo gương mặt vẫn còn ‘’đẹp lão’’, đôi mắt trong sáng đầy nhựa sống. Dường như lúc nào ông cũng mơ mộng, thường đưa ánh mắt buồn buồn thả hồn vào tận cõi xa xăm !

Sau khi Tân Nhựt ăn cơm xong, ông ngồi nhìn qua song cửa thấy tuyết đã ngừng rơi, ông lưỡng lự, tự nhủ :‘’Mình phải sửa soạn đi ra ngoài mới được. Ở nhà đọc sách, xem ti-vi hoài cảm thấy chán nãn sự đời thêm !’’. Ông đứng lên đi đến bàn phấn ngồi trang điểm... Lấy mái tóc giả chấm vai trùm lên đầu, độn ngực, mang vớ đen, mở tủ lựa chiếc rốp màu đỏ dài khỏi đầu gối mặc vào, mang giày và xách tay cùng màu để sẵn sàng, rồi với tay lấy hộp móng tay giả đã chuốt sẵn và sơn màu đỏ choét dán đều mười ngón tay.
Sửa soạn xong, ông đứng trước gương, ẹo mình, xoay qua, xoay lại, ngấm nghía, miệng mỉm cười, tự khen : "Ô ! Nhựt Lan ! Mi vẫn còn đẹp !... Kể từ giờ phút này, Tân Nhựt là Nhựt Lan như thường khi đấy nhé !". Rồi ông lấy áo măn-tô choàng qua vai... Ra khỏi nhà nghe lòng thoải mái đôi chút. Ông sửa tướng như đàn bà, uốn mình, õng ẹo đi lang thang trên đại lộ Capucine. Bất chợt, ông nhìn thấy tấm bảng nhỏ gắn bên hong "Club Privé - L’ Âme de la Fleur’" (Linh Hoa - Câu Lạc Bộ - Tư Nhân), ông tự thốt lên : ‘’Đúng là đây rồi ! Chỗ này, mình nghe ông bạn Jean-Paul... nhắc hoài. Mình thử vào xem...!’’. Ông ngần ngừ vài giây, rồi đưa tay nhận chuông... Yvonne (trai giả gái) khoảng hai mươi tuổi, dáng vóc mảnh mai, phấn son lòe loẹt, mái tóc vàng cắt kiểu bôm-bê, mặc mi-ni-rốp thật ngắn, có kim tuyến lóng lánh, kín ngực, nhưng phía sau khoét hình trái tim lớn hở gần hết lưng, mang giày-bốt trắng, gót cao, dáng đi õng ẹo ra mở cửa :
- Chào bà !
- Chào cô !
- Bà có hẹn với ai ở đây không ?
- Dạ, thưa không ! Xin lỗi, tôi có làm phiền gì không ?
- Không. Rất hân hạnh. Xin mời bà vào...
Tân Nhựt theo chân Yvonne bước vô trong, ông cỡi áo lông... màu nâu đậm đưa Yvonne... Ông làm dáng yểu điệu kiểu cách như một mệnh phụ, chễm chệ ngồi xuống chiếc ghế nhung màu xanh dương trước cái bàn tròn nhỏ. Ông nhìn chung quanh, phía trong góc có để cây đàn dương cầm... Đã có khoảng vài ba chục người khách, đàn ông lẫn đàn bà (?) ngồi từng nhóm đang chuyện trò, cười giỡn vui nhộn. Họ trưng diện quần áo màu mè, kim tuyến lóng lánh... Những giọng nói Âm-Dương lẫn lộn nghe eo éo, ồ ồ... Vì nơi đây, có những vị khách rất ‘’đặc biệt’’. Họ đến uống rượu, uống nước, nghe nhạc... Nhân viên toàn là trai giả gái hoặc ngược lại. Quang cảnh, đèn mờ mờ, ảo ảo đủ màu; tím, đỏ, vàng, xanh, trông rất ‘’Liêu Trai...’’. Nếu là người bình thường, lần đầu tiên đặt chân nơi chốn này thì không thể nào phân biệt được, ai trai, ai gái ?
Yvonne máng áo xong, đi đến trước mặt Tân Nhựt :
- Thưa bà ! Bà dùng chi ?
- Tôi có thể xem "carte" được chứ ?
Yvonne làm duyên, õng ẹo :
- Dạ, có ngay.
- ... ...
Tân Nhựt lật vài tờ và đọc sơ :
- Cô cho tôi xin chai "Champagne Cristal".
- ... ... !
Nãy giờ, Tân Nhựt để ý người đàn ông Á-Châu, tuổi ngoài bốn mươi, (gái giả trai, tên Minh Yên) đang đứng trong "comptoire". Tân Nhựt nghe tim mình xao xuyến, tự nhủ : ‘’Hắn đẹp trai quá ! Mình thử mời hắn đến uống với mình, coi hắn chịu không ? Chắc hắn là ông chủ ở đây ?’’. Tân Nhựt đưa bàn tay dịu nhiễu ngoắt Yvonne :
- Cô có thể mời ông chủ đến uống "Champagne" với tôi được không ?
Yvonne vén mái tóc và hất qua bên trái, cô biết Tân Nhựt là loại nào rồi. Vì nghề nghiệp nên phải "rót" mật ngọt vào tai khách :
- Chắc chắn được liền... Người đẹp mời làm sao dám từ chối !
Yvonne nhìn Minh Yên ra dấu, gật đầu. Tuy nơi đây ít khi có khách Á-Châu, nhưng dù Á hay Âu gì cũng là khách. Minh Yên tự hỏi : ‘’Không biết ‘’Má’’ này từ đâu đến ? Coi bộ hơi ‘’quê quê’’. Nhưng cũng có chút tư cách. Chắc là dân Nhựt Bổn !’’. Nàng tự nhiên như Tây-đầm, tay rút điếu thuốc ghim vào ống điếu nhỏ, cầm theo gói thuốc lá và hộp quẹt, tướng đi mạnh dạn như phái nam, vòng ra ngoài và ngồi xuống bật lửa đốt thuốc, phì phà vài hơi, tay mở gói thuốc :
- Dạ, xin mời bà !
Tân Nhựt lắc đầu :
- Dạ, cảm ơn ông. Tôi đã bỏ hút thuốc từ lâu rồi.
Tân Nhựt nhìn chai Champagne, thì Yvonne đem thêm một cái ly nữa và rót...
Minh Yên làm ra vẻ như đàn ông, liền nâng ly :
- Dạ, xin uống cùng bà.
Tân Nhựt nâng ly... hơi thẹn thùng, nói :
- Xin... ông gọi tôi... Nhựt... Lan !
- Ô, Nhựt Lan ! Tên của bà đẹp quá ! Xin lỗi, phải bà là người Việt Nam không ?
- Vâng !
- Tôi cũng vậy. Gặp được người đồng hương, tôi vui quá... Vì lâu rồi, tôi chẳng được nói tiếng Việt, nên rất thèm... Xin bà gọi tôi Minh Yên đi nha !
Tân Nhựt lảm nhảm : ‘’Minh Yên ! Minh Yên !’’. Ông hỏi :
- Ông là... là chủ ở đây à !
- Không. Tôi chỉ làm quản lý thôi !
- Chắc ông sống ở Pháp lâu rồi chứ ?
- Hơn hai mươi bốn năm ! Còn bà ?
Tân Nhựt im lặng vài giây :
- Tôi thì qua đây lâu lắm rồi !
(......)
Đôi bên chuyện trò qua lại, mà đã hơn mười giờ đêm. Một nữ nhạc sĩ (?) tha thướt bước ra, nhún chân chào quan khách, trên đầu đội vương-miện gắn kim cương chiếu lấp lánh, mặc chiếc áo đầm màu trắng ngà kiểu cổ-điển xa xưa, trông giống y như Hoàng Hậu Josephine, ngồi xuống đệm dương cầm. Tiếng nhạc trổi lên với bài ‘’La Vie En Rose’’(?). Một nam ca sĩ hóa trang Hoàng Đế Napoléon lên cầm micro... giọng hát khàn khàn nghe rất chuyên nghiệp. Nhưng ánh mắt chàng ta cứ nhìn về bàn của Nhựt Lan và Minh Yên... Khi bài hát vừa dứt, tiếng vỗ tay và la ó ‘’bis-bis’’... Nhưng ‘’Napoléon’’ không hát nữa. Chàng để mặc tình cho ‘’Josephine’’ đệm đàn...

*
Tân Nhựt về đến nhà hơn ba giờ sáng, tâm hồn lâng lâng như bay bổng tận mây xanh. Ông nghe tim mình là lạ, lòng hơi lo và nghĩ :‘’Trời ơi ! Mình đã yêu Minh Yên rồi sao ? Sẽ khổ nữa chăng ? Ha ! Con tim không có tuổi, yêu thì cứ yêu ! Nhưng khổ vì yêu là ‘’thú đau thương’’. Ta cần phải có Minh Yên, người lý tưởng của tôi ơi !’’. Đôi mắt ông mơ màng và ôm thương nhớ hình bóng Minh Yên. Vì ông đinh ninh Minh Yên là đàn ông thật. Ông ngả mình trên giường lăn qua lộn lại và ngâm thơ :
Đêm nay hồn bổng xoay chiều
Yêu ai, ai hiểu những điều ta mơ ?
*
Sau cả tháng trời, Tân Nhựt thường lui tới nơi hộp-đêm nho nhỏ này. Rồi một hôm ông không thấy Minh Yên nữa. Ông kiên nhẫn trở lại nhiều lần, nhưng Minh Yên vẫn bặt tăm. Đêm nay còn sớm, khách mới vô lai rai có mấy cặp, họ ngồi tuốt bên trong. Nhựt hỏi nhỏ Yvonne :
- Cô Yvonne ! Sao lâu rồi, tôi không thấy ông Minh Yên đi làm ? Ông ấy có khỏe không ?
- Chắc khỏe mà. Nhưng bị bà chủ cấm lại đây rồi.
- Bà chủ là ai ? Bộ ông ấy có vợ hả ?
Yvonne gật đầu, uốn éo, cười hí hí, cô bắt đầu nhiều chuyện :
- Minh Yên là đàn bà. Bộ bà không biết sao ? Còn bà chủ là, ca sĩ "Hoàng Đế Napoléon’’ lùn tịt đó. Bà ấy, tên Marie. Trời ơi ! Bà ta ghen Minh Yên với bà dữ lắm đó. Bà Minh Yên ăn diện theo đàn bà thì đẹp gái. Nhờ tướng tá cao ráo, khi giả đàn ông thì đẹp trai. Nên "má già "Marie mê mệt, bắt Minh Yên đóng vai chồng của bả...
- Hả ! Trời ơi !
- Làm gì mà bà ngạc nhiên dữ vậy ? Để tôi kể tiếp cho bà nghe...
- Thôi, thôi đủ rồi, cô Yvonne à !
Nhựt nghe Yvonne nói, tâm hồn ông như bị trời đánh, súng nổ bên tai, chết điếng trong lòng. Ông cố gắng trấn an, ráng bình tĩnh và hỏi nhỏ Yvonne :
- Cô có biết số điện thoại riêng của Minh Yên không ? Xin cô cho tôi.
- Có đây. Mà điện thoại di động. Tôi cho bà... Bà nhớ cẩn thận nha. Bà Minh Yên thường nhắc và khen bà đẹp...
Nhựt lấy số điện thoại xong, ông bảo Yvonne tính tiền. Yvonne cười :
- Còn sớm mà !
- Tôi phải về.
- Nè, nếu bà có gọi bà Minh Yên, thì gọi cỡ nửa đêm nha !
Nhựt trả tiền xong và nhét vô tay Yvonne hai trăm quan và nói :
- Cám ơn cô Yvonne. Chào cô, tôi về.
- Chúc bà ngủ ngon.
Đêm nay, Tân Nhựt về nhà, tâm hồn của ông bị chấn động, quay cuồng như người điên loạn. Ông nắm đầu tóc giả giựt mạnh ra và vứt bừa xuống đất. Ông không thay đồ, chẳng thiết tha gì nữa cả. Ông mở tủ rượu lấy chai Cognac nóc một hơi, trong chốc lát... rồi buông mình trên salon nửa trên nửa dưới, nhắm nghiền đôi mắt...

Hơn bốn mươi năm về trước...


... Phạm Tân Nhựt, mười tám tuổi, sanh trưởng trong một gia đình buôn bán nho nhỏ ở Bình-Điền - Bình-Chánh (Sài-gòn), vừa thi đậu bằng tú tài toàn phần. Cậu là học sinh ưu-tú nên được chánh phủ (thời Ngô Đình Diệm) cho sang Pháp học bổng. Trong khi đó, Tân Nhựt và Minh An, hai người yêu nhau tha thiết và thề non, hẹn biển... Ngày tiễn đưa Tân Nhựt đi du học, đôi trai-gái trẻ đọng đầy nước mắt chia ly...
*
Tân Nhựt đến Paris, học qua năm thứ ba, thì thời cuộc biến đổi. Trào Ngô Đình Diệm bị lật đổ, Nhựt không còn nhận tiền trợ cấp qua Tòa Đại Sứ nữa. Tại vì Tân Nhựt không chịu đầu phục ai, nên sống trong nghèo túng, cậu phải đi xin rửa chén trong những nhà hàng... để tiếp tục sự học. Vì con nhà nghèo nên gia đình chẳng có phương tiện nào để giúp đỡ cậu. Và cũng chẳng còn được nhận những lá thư tình của Minh An nữa. Từ thất vọng này sang đến thất vọng khác. Tân Nhựt chỉ còn một cứu cánh duy nhứt là phải ráng học đến thành tài.
Sau bao năm cuộc sống của Tân Nhựt thật là cực khổ ; thiếu cơm, thiếu áo... ‘’Đơn thương, độc mã’’ bơ vơ trên xứ người. Nhưng khí-phách của chàng trai nước Việt không hề nãn chí, lòng cương quyết tiến thân, chấp nhận đời lưu-vong, vững bước trên đường học vấn cho đến ngày đỗ đạt.
Sau khi Tân Nhựt đậu bằng Cử Nhân... Rồi vừa đi làm vừa đi học, cậu đỗ luôn bằng Tiến Sĩ....Và được bổ nhiệm làm giảng Sư Đại-Học... Paris...
Tuy, Tân Nhựt đã thành tài mà trong lòng luôn ôm khối hận ‘’tình-tiền’’. Cậu không tha thiết gì đến đàn bà, con gái. Rồi tâm hồn cậu ‘’xoay chiều’’ trở thành người ‘’đồng-tính-luyến-ái’’. Cậu chỉ kết bạn và đi chơi với những ‘’xác bướm hồn hoa’’...
*


Tiếng động của xe đổ rác nghe rầm rầm dưới đường. Tân Nhựt giật mình thức dậy, nhìn đồng hồ mới bảy giờ sáng. Trong đầu ông nghĩ ngay đến Minh Yên, bên tai còn văng vẳng lời của Yvonne nói :‘’Minh Yên là đàn bà. Bộ bà không biết sao ?’’. Ông nhìn xuống người, giựt mình :‘’Trời ơi ! Đêm qua về, mình say dữ lắm sao ?’’. Ông đứng dậy, thất thiểu đi thay đồ và làm toilette...
Tân Nhựt ngồi trước tách cà-phê nóng, ông ráng tưởng tượng và hình dung Minh Yên là đàn bà. Nhưng không làm sao tưởng tượng ra nổi, lòng tự hỏi :‘’Mình đã ngoài sáu mươi tuổi rồi mà còn mang bệnh tương tư à ? Mình có thể còn yêu đàn bà được nữa sao ? ‘’. Càng nghĩ đến Minh Yên, ông nghe tim mình quặn đau, Ông nghĩ tiếp :‘’Làm sao mình gặp được Minh Yên đây ? Nàng có biết, mình là đàn ông không ? Vì mình chích thuốc... cho đổi giọng nói...’’... Tân Nhựt suy nghĩ bao nhiêu điều, rồi ôm đầu, rứt tóc..., đứng lên mở tủ thuốc lấy tất cả những loại thuốc ‘’đặc biệt’’ kia vứt vào giỏ rác. Rồi ông đến mở hộc tủ tìm kiếm lại ‘’những lá thư tình’’ của Minh An gởi cho ông hơn bốn chục năm qua. Ông lần lượt mở ra đọc từ từ cho đến hết... Ông nghe tâm hồn mình đang trở về tuổi trẻ. Hai hình bóng, Minh An và Minh Yên chập chờn ẩn hiện lúc mờ, lúc tỏ...
Tách cà-phê đã nguội ngắt, Tân Nhựt bưng lên hớp vài hớp. ngồi lẩn thẩn từ sáng sớm đến trưa như người mất trí. Rồi ông sực nhớ số điện thoại của Minh Yên. Không thể nào chờ đợi tới nửa đêm được, liền với tay lấy điện thoại bấm số...
- ... !
Minh Yên đang loay hoay sau bếp, lo sửa soạn bữa cơm trưa, nghe Marie gọi :
- Minh Yên ! Điện thoại của mày reo...
Minh Yên liền chạy nhanh lên lấy điện thoại của mình nghe :
- ... A-lô !
- A-lô ! Dạ, thưa, có phải ông Minh Yên không à ?
- Dạ, tôi đây ! Xin lỗi, ai đầu giây đó ?
- Dạ, tôi Nhựt... Nhựt Lan đây !
- Ha !... Chào bà Nhựt Lan !
Nhựt lặng im vài giây, rồi hỏi :
- Tôi có làm phiền gì ông không ?
- Không. Bà cứ tự nhiên đi.
- Tôi có được hân hạnh mời ông tối nay đi dùng cơm với tôi không ?
- ...... !
- A-lô, a-lô !
- Dạ, được ! Mấy giờ, ở đâu ?
Nhựt nghe lòng nhẹ nhõm :
- Hai mươi giờ, nhà hàng Sàigòn-Sàigòn, số... đường Convention, Paris15.
- Nhà hàng Việt Nam à ?
- Vâng ! Ông biết chỗ đó chứ ?
- Dạ, biết. Chỗ quen lắm.
- Ông có ngại gì không ?
- Không. Không hề gì... Chắc, cô Yvonne có nói với bà về tôi rồi chứ ? Nhưng... thôi, tối mình gặp nhau nha bà !
Nhựt lưỡng lự :
- Rất mong gặp ông tối nay !
- Dạ. Xin chào bà nha !
Minh Yên vừa cúp điện thoại, thì Marie hỏi :
- Cái con ‘’mụ già’’ Việt Nam gọi mày phải không ? Làm sao, nó có số của mày mà gọi vậy ?
Minh Yên biết là Marie ghen với Nhựt Lan dữ lắm, nàng nín thinh không thèm trả lời. Marie tiến tới lắc vai và lớn tiếng :
- Tao bảo mày ở nhà, mọi sự để tao lo, mà mày vẫn còn lén tao sao ? Nếu, mày muốn còn được tao lo thì mày phải dứt khoác liên lạc với con ‘’mụ già’’ ấy.
Minh Yên vẫn nín thinh. Marie tức quá, lấy điện thoại cầm tay của Minh Yên vứt xuống đất thật mạnh và lấy gót giày dậm lên, làm bễ nát cái điện thoại. Miệng bà ta hét lớn :
- Tao chịu hết nổi rồi.
Bà lấy tay xỉ vô mặt Minh Yên và la tiếp :
- Mày làm tao khổ quá. Mày hãy dọn đồ đi đi, đi mau lên.
Minh Yên không dằn được nữa :
- Nè, bà đuổi tôi. Tôi sẽ ra đi thật đó.
- Ừa, đi đi, đi liền cũng được.
Minh Yên nghe tự ái bị chạm nặng. Nhưng bị "vợ " đuổi bất thình lình, nghĩ :"Trời ơi ! Giữa mùa đông tuyết phủ. Đi đâu bây giờ này trời !’’. Nàng ráng dẹp tự ái, dằn lòng, nói nhẹ giọng với Marie :
- Marie ! Marie cho tôi ở nán thêm một tuần nữa, để rồi tôi sẽ tìm nhà mướn nha !
Marie thừa thắng xong lên :
- Không. Tao muốn mày đi liền. Đồ " con chó dơ "..
Minh Yên nghe Marie chửi và đuổi mình. Nàng nghe trong lòng đau buốt và cảm thấy bị Marie miệt thị, khinh bỉ.. Không còn cách nào hơn, nàng vào phòng thay đồ... rồi lấy quần áo, đồ đạc cá nhân bỏ vào va-li và vài túi xách nhỏ. Ứa nước mắt, nói cảm ơn Marie, lấy chìa khóa nhà trả lại cho bà và mở cửa ra đi.
Bà Marie nghĩ :‘’Hứ, làm bộ đi. Chút chiều là quay đầu về. Kỳ này ‘’Má’’ sẽ không mở cửa đâu con ơi !’’. Nhưng đến chiều tối, bà không thấy Minh Yên điện thoại để xin lỗi, cho trở về với bà, như những lần trước nữa... (...)
Còn Minh Yên, sau khi đi ra khỏi nhà bà Marie, nàng xách va-li đi xuống mê-trô, đến thẳng nhà hàng Sàigòn-Sàigòn. Minh Yên mở cửa bước vô nhà hàng với chiếc va-li và vài bịt lỉnh-nghỉnh. Chị Hai Sâm, chủ nhà hàng vừa trông thấy :
- Minh Yên ! Em đi đâu mà xách tùm lum đồ đạc vậy ?
Minh Yên lắc đầu :
- Bị bà chủ đuổi, thất nghiệp nữa rồi chị Hai ơi !
- Trời ơi ! Tai nạn đến với em nữa rồi hả ?
- Thì đời mà chị ! Hên, xui, may, rủi có gì lạ đâu ! Chị cho em gởi đồ đạc nha ! Chiều em có hẹn bạn đến đây ăn cơm.
- Được rồi, cứ để đó, chút chị kêu sắp nhỏ đem lên lầu. Có gì thì ở đây với chị, rồi từ từ đi kiếm việc làm.
- Em cảm ơn chị Hai nhiều. Em đi nha !
- Em đi đâu giờ này ? Ở đây, chút nữa ăn cơm với chị.
- Em đi ra Montparnasse làm tóc. Chút chiều, em sẽ trở lại.
- Ừa, thôi cũng được !

*


Khoảng sáu giờ chiều, Minh Yên trở lại nhà hàng, nàng xin chị Hai Sâm cho lên lầu tắm rửa và sửa soạn, nàng mặc bộ Âu phục màu đen. Bảy giờ rưởi, nhà hàng mở cửa, Minh Yên xuống và lấy cái bàn hai chỗ trong góc, nàng ngồi đợi Nhựt Lan...
Đúng tám giờ, một người đàn ông lớn tuổi, tướng diện cao ráo, vẻ mặt rất hiền từ, tóc muối tiêu, mặc áo măn-tô nỉ màu đen, bước vô nhà hàng, cỡi áo măn-tô ra, bên trong ông mặc bộ côm-lê màu xám đậm, mắt đang nhìn cậu chạy bàn. Ông định hỏi, thì Minh Yên đứng dậy ra tiếp :
- Thưa ông, có phải ông có hẹn với ông Minh Yên không ?
- Dạ, thưa bà. Đúng vậy.
- Xin ông đưa áo cho tôi, và mời ông bước vô bàn trong.
- Cảm ơn bà.
Minh Yên đưa Tân Nhựt ngồi vào bàn. Tân Nhựt nhận ra giọng nói của Minh Yên. Ông nghi ngờ, nhưng vì lịch sự nên không dám hỏi. Minh Yên mỉm cười :
- Nhựt Lan, không nhận ra em sao ?
Tân Nhựt xoa hai bàn tay, đôi mắt sáng lên, cười cười :
- Thôi, gọi tôi là anh Nhựt được rồi.
- Còn em là, cô Minh Yên nha !
Tân Nhựt vui vẻ và trong lòng rất sung sướng, ông ráng hạ giọng nói như đàn ông, nhưng vẫn còn giọng hơi the-thé :
- Thiệt, trên cõi đời không thể tưởng tượng được nổi, phải không Minh Yên ?
(...)
Chị Hai Sâm bước ra, Minh Yên giới thiệu... Rồi họ kêu canh chua, cá kho tộ ăn với cơm.
Bữa cơm thuần túy Việt Nam, mà từ lâu cả hai người không được ăn. Vì đàn ông sống độc thân thường hay làm biếng nấu nướng. Còn người đàn bà kia thì ở với đầm... !
Sau khi ăn cơm xong, Minh Yên kể lể chuyện vừa xẩy ra hồi trưa này... Tân Nhựt nghe hết sự tình, ông mở lời mời Minh Yên về nhà. Trong hoàn cảnh, nước đường cùng, Minh Yên như con thuyền bị sóng gió giữa dòng biển cả, mà Tân Nhựt là chiếc phao cứu vớt đời nàng. Nên nàng không chút ngần ngại, mà nhận lời ngay.

*


Minh Yên về nhà Tân Nhựt, hai người ngồi bên nhau tâm sự những chuyện đã qua... Minh Yên kể lể :
- Hơn hai mươi bốn năm về trước, gia đình em ; ba, má và chị Minh An kéo xuống miệt Cần-Giờ vượt biển.
Tân Nhựt giựt mình vội hỏi :
- Hả, Minh An là chị của em ? Có phải con gái của ông Lý Minh Tịnh không ?
- Dạ, đúng. Ủa, anh có quen biết gia đình em sao ? Làm gì anh ngạc nhiên dữ vậy ?
- Có... Nhưng không. Không có gì. Thôi, em kể tiếp đi.
- Anh biết không ? Tất cả trên chiếc ghe tam-bảng khoảng ba chục người. Nhưng vừa ra khỏi hải phận Việt Nam, thì bị bão lớn làm đấm thuyền. Mấy tiếng đồng hồ sau - cũng may nhờ có chiếc tàu hàng... của Pháp đến cứu vớt, nhưng chỉ còn sống sót được chín người, trong đó có em. Còn cha, mẹ, chị Minh An và những người khác bị chìm dưới đáy biển, làm mồi cho cắ mập... Kinh hoàng lắm anh ơi ! Sao em không chết chung với gia đình...
Kể tới đây, Minh Yên ôm mặt khóc thút thít, nghẹn ngào nói tiếp :
- Sau mấy tháng ở trong trại ... Rồi em được chánh phủ Pháp nhận về cho tị-nạn. Lúc đầu có tiền trợ cấp và cho đi học Pháp-văn, rồi học nghề kết-xe... Trong suốt hai mươi mấy năm trời, em sống bơ vơ, phiêu bạt giữa thủ đô hoa-lệ này. Em gặp lắm điều buồn khổ, bao cậm bẩy, lừa lọc... Rồi một buổi chiều hè, cách đây hơn ba năm, em đang ngồi trong quán rượu ở khu Opéra, em và bà Marie làm quen với nhau... Kể từ đó, em thay đổi cuộc sống...
Tân Nhựt nghe Minh Yên kể, ông rất xúc động. Bao nhiêu oán hận khi xưa điều tiêu tan bay hết. Ông đứng lên, đi lấy quyển album cũ kỹ, lật đến tấm ảnh của ông và Minh An chụp chung ở công-viên Nguyễn Huệ khi xưa, chỉ cho Minh Yên xem. Minh Yên nhìn hình chị mà nước mắt tuôn tràn :
- Vậy là khi xưa, anh và chị Minh An yêu nhau à ? Rồi vì sao mà không thành hôn ?
- Câu chuyện dài dòng lắm. Để rồi từ từ, anh sẽ kể cho em nghe. Vì lúc ấy, em còn nhỏ xíu.
- Đúng rồi. Chị Minh An lớn hơn em mười mấy tuổi
- Minh An bằng tuổi anh; à, Minh An có chồng, con gì không em ?
- Chị em lấy chồng, thì không đầy một năm anh rể bị tai nạn chết. Cũng may không có con.
Tân Nhựt thở ra, nhích lại gần Minh Yên và nói :
- Mọi chuyện đau buồn, em hãy cho vào dĩ vãng đi. Anh muốn hỏi em chuyuện này.
- Chuyện gì vậy anh ?
Tân Nhựt nắm tay Minh Yên, lòng hơi ái ngại, ông nghĩ :‘’Mình muốn nói, mình yêu nàng. Không biết nàng có cho mình sổ sàng hay lợi dụng gì không đây ? Chắc, nàng cũng có cảm tình nhiều với mình...?’’.
Minh Yên thấy Tân Nhựt nín thinh, nàng lắc tay và hỏi :
- Kìa, anh đang suy nghĩ gì, mà không nói cho em nghe ?
Tân Nhựt nói nhanh :
- Anh yêu em, và muốn cưới em làm vợ !
Minh Yên nhìn Tân Nhựt gật đầu và ngả người vô ngực ông...
- ...... !
Tân Nhựt nghe tâm hồn khoan khoái :
- Cảm ơn em đã tin tưởng anh... Anh sẽ thu xếp mọi việc trong vòng sáu tháng. Đến hè, chúng mình đổi nhà ra ngoại-ô ở cho yên tịnh. Đừng nên ở trong Paris nữa.
- Mọi sự, em để cho anh quyết định. Mà vì sao, anh không thích ở trong Paris ?
- Vì... Paris có quá nhiều kỷ niệm buồn. Ra ngoài đó, hằng ngày anh sẽ làm ‘’Hoàng Hậu Josephine’’ đệm dương cầm. Còn em là ‘’Hoàng Đế Napoléon’’ hát cho anh nghe nha !
- Trời ơi ! Sao anh muốn chúng mình giả trai, giả gái nữa ?
- Thì... thì để nhớ kỷ niệm của chúng mình gặp nhau. Em đồng ý với anh chứ ?
- Dạ, đồng ý. Và, em sung sướng được trả món ‘’nợ tình’’ mà chị Minh An thiếu anh khi xưa.
- Không. Chẳng có nợ nần gì cả. Ngược lại chúng mình còn phải mang ơn Minh An. Có lẽ, nàng xui khiến cho hai chúng ta cứu giúp lẫn nhau đó em à ! Đời anh, nay đã có em, thế là anh được trở về nguồn gốc, như thuyền cặp BẾN XƯA :‘’Ta về, ta tắm ao ta. Dù trong, dù đục, ao nhà vẫn hơn’’. Có phải vậy không... ông... Minh... Yên ?
Ánh mắt Minh Yên tràn đầy hạnh phúc, nàng mỉm cười đáp lại :
- Dạ, đúng rồi đó...bà... Nhựt... Lan à !

*
"Ngẫm hay muôn sự tại trời

Trời kia đã bắt làm người có thân

Bắt phong trần, phải phong trần

Cho thanh cao, mới được phần tha cao..."

("Kiều" Nguyễn Du)
Việt Dương Nhân
( Ivry sur Seine, Bạch Am, đêm hè 12-07-2003)