Thứ Năm, 27 tháng 6, 2013

Người giữ mầm cho Văn chương miền Nam - Tác giả: Hồ Phú Bông

|
uommam

Khoảng một, hay hai tuần, sau 30/4/1975, tôi và thằng bạn ngồi tại góc ngã tư đường Trương Minh Giảng – Trần Quang Diệu, là trạm xăng Shell cũ. Lúc đó không phải bán xăng mà người ta bày bán đủ thứ linh tinh, thượng vàng hạ cám. Một góc là quán nhậu dã chiến. Thằng bạn, lục trong tủ nhà của cô em, đem theo một chai Martel, Hennessy, Courvoisier hay Whisky chi đó còn sót lại. Hai đứa, dù chẳng phải là bợm nhậu, cũng cưa đứt. Ngồi nhìn Sài Gòn đang ngơ ngác. Ngồi nhìn Sài Gòn đang hoảng loạn. Ngồi nhìn Sài Gòn đang nhếch nhác. Chúng tôi cũng hoảng loạn, cũng ngơ ngác, cũng nhếch nhác. Cái gì sẽ đến cho bản thân và gia đình? Cái gì sẽ đến cho thành phố, cho xã hội miền Nam? Tự chọn ở lại quê hương là khôn hay dại? Phải chăng mức độ căng thẳng như thế, lớn hơn, mạnh hơn nồng độ cồn nên cả hai đứa vẫn tỉnh bơ, không xỉn?
Hai đứa tôi đã bỏ chạy khỏi Đà Lạt gần hai tháng trước theo hai ngã khác nhau. Hắn làm việc tại Ủy ban Điều hợp Quân sự bốn bên, theo Hiệp định Ba Lê về Việt Nam, ngay tại thành phố Đà Lạt.
Hắn kể, trước khi bỏ chạy đã kịp khuân ra sân đốt sạch tất cả sách vở giấy tờ trên kệ sách trong phòng khách của chúng tôi. Phần lớn sách trên kệ là tài liệu, về triết, về chính trị, đặc biệt là sách phân tích về chủ nghĩa cộng sản. Số còn lại là văn chương. Trong số sách đó tôi quý nhất là cả chục cuốn dày cộm có chữ ký của vị chỉ huy trưởng một quân trường, nơi tôi đã theo học. Đó là phần thưởng của hai giải diễn thuyết và biện luận.
Còn tại Sài Gòn thì thằng em tôi phải đem tất cả sách giao nộp cho công an để họ hỏa táng “văn hoá đồi trụy, tàn dư Mỹ-Ngụy”!
Tần Thủy Hoàng xưa, đốt sách! CSVN vào cuối thế kỷ 20 nay, cũng đốt sách của miền Nam! Mao đốt sách trắng thay bằng sách hồng trong cuộc Đại Cách mạng Văn hóa, kèm theo sinh mạng 35 triệu dân Trung Quốc do bọn Hồng Vệ binh thi hành. Thì, CSVN cũng đốt sách của nền văn minh tự do miền Nam, đày ải hàng trăm ngàn quân cán chính vào các trại tập trung cải tạo. Chết bờ chết bụi, chết trong lao tù ở rừng sâu núi thẳm từ Nam ra Bắc do bộ đội và công an thực hiện!
Đốt sách là chối bỏ văn minh xã hội. Nhưng khi nền văn minh đã thấm đẫm vào từng tâm hồn, từng thớ đất của người miền Nam thì về mặt nổi, dù có biến thành tro bụi, nhưng phần chìm, phần nền tảng, vẫn còn nguyên. Và những tro bụi đó đã tự bay theo gió từ Nam ra Bắc trong thời điểm sớm nhất, ngay sau 30 tháng Tư. Là thời điểm hàng hàng lớp lớp, đủ loại xe bị trưng dụng, nối đuôi nhau chở tài sản cướp được về Bắc. Họ mang theo cả văn hóa, văn chương “ngụy” miền Nam, một loại rất quý hiếm lúc bấy giờ!
Còn Hà Nội thì ra sức trấn an phe “ta” trước sự choáng ngợp về tính tráng lệ, giàu có và văn minh tại miền Nam.
Họ ra rả lên án “nhạc vàng”, “văn hóa đồi trụy Mỹ-Ngụy”, kinh tế “phồn vinh giả tạo” của miền Nam!
Để đến bây giờ, tháng Năm năm 2013, nhiều nhà phân tích công nhận: Chính văn minh và kinh tế miền Nam đã giải phóng miền Bắc!
Miền Bắc chiếm được miền Nam bằng quân sự nhưng miền Nam giải phóng miền Bắc bằng tự do dân chủ và văn minh.
Giới văn nghệ sĩ miền Nam ngày đó cũng theo vận nước, tứ tán như bầy ong vỡ tổ. Cho dù chỉ 20 năm ngắn ngủi (1954-1975) được tự do, được tích lũy góp mật thu từ những tinh hoa của thế giới văn minh đem về, nhưng như thế cũng đã thừa đủ độ ngọt để làm ngọng những cái lưỡi gỗ tuyên truyền!
Trong số tứ tán đó thì nhóm Trần Hoài Thư lại lặng lẽ gom tụ tại nơi ở mới dù thời gian đã cướp gần cạn sinh lực đời người. Không còn khả năng, sức khỏe và sự nóng cháy của tuổi thanh niên. Không còn thời gian để khám phá chân trời mới của văn học nên nhóm quay về chủ trương khác. Chủ trương đi tìm lại những giọt mật bị tản lạc, rơi rớt mà cuộc tản hàng bất ngờ không thể mang theo. Những bản thảo chưa kịp xuất bản tại miền Nam, đã xuất bản nhưng chưa kịp phát hành, hay phát hành nhưng bị mai một vì tai ương của lịch sử nên bị rơi vào quên lãng… Cả nhóm từ từ tìm lại. Gom góp lại. Dù có lớp bụi thời gian che phủ nhưng cũng giống như bụi phủ trên gương soi. Thổi đám bụi bay đi, tấm kiếng sẽ sáng lại. Sẽ soi lại nhân dáng của một thời đã mất. Nhân dáng đó, dung nhan đó đang là chứng nhân cho lịch sử. Chẳng những lịch sử về chiến trận mà cả lịch sử về nhân văn miền Nam.
Cho đến bây giờ, thực tình tôi không biết nhóm Trần Hoài Thư đã gom góp được bao nhiêu tác phẩm. Đã đánh máy lại bao nhiêu bản thảo cũ nát, sao lục lại từ bao nhiêu thư viện, tái tạo được bao nhiêu sách. Chỉ biết là thỉnh thoảng thấy một tác phẩm tái sinh hay ra đời, kèm theo một tạp chí mang tên Thư Quán Bản Thảo, lâu lâu lại xuất hiện. Xuất hiện không theo định kỳ mà sách lại có giá trị, đạt tiêu chuẩn về phẩm và mỹ thuật!
Và lạ nhất, sách không bao giờ bán! Chỉ tặng. Gửi tặng qua bưu điện không đòi một xu tiền tem!
Tại hải ngoại đã có vô số những tạp chí, ấn phẩm có giá trị, xuất bản định kỳ để bán, sống dai dẳng được như Thế Kỷ 21, Văn Học, Văn Nghệ Tiền Phong… là rất hiếm. Nhưng cuối cùng cũng chết! Ấy thế mà sách của nhóm Trần Hoài Thư, với Thư Ấn Quán xuất bản thì còn đó. Xuất bản lặng lẽ, sống lặng lẽ, dù không đều mà không phải để bán.
Sách in ra, tạp chí in ra chỉ để tặng! Dứt khoát không bán! Mỗi ấn phẩm đều là công khó của nhóm chủ trương. Là tác phẩm của nghệ thuật. Như đứa con cầu tự của vợ chồng già!
Vì, nó là hạt giống văn chương miền Nam ươm mầm cho tương lai.
Trong nước thì chế độ cộng sản lo thủ tiêu. Ngoài nước thì nhóm Trần Hoài Thư lo gây mầm! So sánh lực lượng, một bên là chủ trương của nhà nước, một bên chỉ năm bảy người tự xoay xở kiếm sống và tằn tiện từng đồng, tự tay làm tất cả mọi việc in ấn để xuất bản. Một gã khổng lồ Goliath CSVN tỉ đấu với anh chàng tí hon David.
Nhưng lịch sử cho biết, David thắng!
Và hôm nay, cũng thế. Văn chương miền Nam ngày một được phục hồi. Miền Nam mất nhưng văn chương miền Nam không mất!
Sự thật, văn chương miền Nam vẫn sống như hơi thở của người miền Nam. Hơi thở của cuộc sống. Hơi thở đó là hơi thở của văn minh nhân loại, nên tự nó tồn tại.
Và con số hiếm hoi của những nhóm cố gắng giữ mầm văn chương trước bể dâu thời cuộc đó, phải kể đến nhóm Trần Hoài Thư.
Tôi tin văn chương miền Nam từ sau 30/4/1975 đến nay chỉ đang bị khô hạn nên không thể phát triển trong nước. Nhưng có được những tấm lòng như nhóm Trần Hoài Thư, như những bác nông dân cứ cố giữ tốt hạt giống cho vụ mùa, bất chấp nắng cháy, bất chấp khô hạn để chờ một ngày có cơn mưa lớn.
Cơn mưa làm hồi sinh!
Như mầm sống của cỏ cây, hoa lá chịu ẩn mình dưới băng tuyết với không gian tê cóng, rặt một màu xám xịt. Nhưng khi mùa Xuân đến, lại nhú mầm. Lại bùng lên nhiều loại hoa tuyệt đẹp giữa lớp băng tan. Chính những giọt thủy tinh lóng lánh còn vươn trên những cánh hoa đó lại có tác dụng làm hoa thêm đẹp, thêm tinh khiết.
Trong số sách nhóm Trần Hoài Thư tìm tòi, tái bản để giữ mầm đó tôi may mắn có được cuốn Cõi Đá Vàng của Nguyễn Thị Thanh Sâm.
Vì thế, mùa Xuân của văn chương miền Nam phải trở lại. Phải hồi sinh ngay tại Việt Nam như đã và đang bùng phát qua in chui, nhà xuất bản chui, phát hành chui.
Và, có lẽ, chỉ một Việt Nam XHCN mới có loại văn hóa phẩm mà phải chui!
Chúng ta có thể thờ ơ với nhiều thứ nhưng khó thể thờ ơ với văn chương. Vì, văn chương sẽ luân hồi. Chết đi và sống lại. Như văn chương miền Nam hôm nay.
© Hồ Phú Bông
© Đàn Chim Việt
http://www.danchimviet.info/archives/76956/nguoi-giu-mam-cho-van-chuong-mien-nam/2013/06 

Văn chương và con người - Tác giả: Đỗ Trường

|
Văn chương

Phàm đã là con người, ai cũng có lúc khôn lúc dại, lúc dở lúc hay, âu đó cũng là thường tình của người trần tục. Ngày còn học sư phạm, chúng tôi có được nghe một nhà tâm lý học nói đại ý rằng: Một đời người thế nào cũng có khoảng 4 đến 8 năm là thông minh hơn bình thường. Những người có năng khiếu và theo nghiệp văn chương, trong thời gian này, họ thường để lại những tác phẩm hay. Hoặc những nhà khoa học, các nhà chính trị cũng vậy, sự thông minh nổi trội cũng chỉ có trong khoảng thời gian như vậy mà thôi, có người bộc phát lúc trẻ, có người lúc trung tuổi, về già khả năng này thường không còn nữa. Chứ chẳng ai dám vỗ ngực nói, tài năng và thông minh cả đời. Điều đó là phi khoa học.
Ngẫm nghĩ ra quả là đúng thật, tôi có thằng bạn rất thân, học chung suốt từ cấp một cho đến hết cấp ba (hệ 10 năm). Những năm học cấp một, cấp hai, lực học của nó vào dạng thường thường hoặc trung bình. Lên đến lớp 8 lớp 9 lực học của nó cũng chưa có gì nổi trội. Nhưng đến lớp 10 lực học của nó vượt hẳn lên, làm cho mọi người rất ngạc nhiên, nhất là các môn tự nhiên. Như mọi người đều biết, những năm 1976-1977 làm gì đã có học thêm học nếm như bây giờ. Gia đình nó cũng như gia đình tôi đều nghèo. Buổi sáng chúng tôi đều phải nhịn đói đi học. Trưa về ăn vội vài bát cơm độn khoai lang khô, hoặc bánh mì hấp hôi rình, chiều chúng tôi lại phải làm giúp đỡ gia đình, tối mịt mới về nhà. Ăn uống qua quýt, rồi xem qua sách vở, mệt quá chúng tôi lăn quay ra ngủ. Nói thật ngày ấy không phải đóng tiền học phí, cứ như phải đóng tiền như bây giờ, có lẽ nó và tôi phải nghỉ học từ lâu rồi. Năm đó nó thi vào đại học bách khoa, đủ điểm đi du học ở Liên xô. Sau khi tốt nghiệp loại giỏi, nó về nước, được dậy ở trường đại học lớn có tiếng tăm ở Hà Nội. Chuyên môn của nó, nghe bạn bè kể lại là rất khá. Được đi làm luận án tiến sĩ ở một nước tư bản, sau đó nó được về lãnh đạo một khoa, thuộc chuyên môn của mình. Ở xa, nghe tin, tôi cũng mừng. Nhưng gần đây, tôi lại nghe kỳ đại hội vừa rồi, nó có chân trong ban chấp hành đảng ủy. Có lẽ nó sắp thành lãnh đạo của trường, xa rời chuyên môn của mình. Quả thật, tôi lo và tiếc cho nó quá.
Lại có ông bạn thân cũng cùng học khác. Thằng này học hành vào dạng làng nhàng, và chểnh mảng như tôi. Thi đại học thiếu mấy điểm, nhờ có bố là liệt sỹ, nên nó được gọi vào học dự bị. Tốt nghiệp, nó về nhận công tác ở một sở của thành phố. Thời bao cấp, lương ba cọc ba đồng, nên cuộc sống vợ chồng nó vất vả lắm. Năm 1990, sau mở cửa được mấy năm, nó bỏ việc, ra ngoài lập công ty chuyên sản xuất những thiết bị về công tắc, và dây dẫn điện. Bốn, năm năm đầu nó làm ăn phát đạt lắm. Năm 1994, tôi về dự đám cưới cô em gái út. Nó lái xe ô tô riêng ra sân bay đón tôi, nhìn rất phong độ. Hầu như chiều nào cũng vậy, sau khi tan sở nó cũng lái xe qua nhà đón tôi đi uống bia. Nghe nó nói về công ty và những hoạch định, tôi cho là nó có đầu óc sáng tạo. Đang làm ăn ngon lành như vậy, không hiểu ma đưa lối, quỉ dẫn đường như thế nào, nó lại kết hợp với người khác, mở rộng ngành nghề kinh doanh, sang cả lãnh vực xuất khẩu lao động. Bất chấp sự can ngăn của vợ con, và bạn bè. Nội tình vụ việc tôi không rõ như thế nào, hai năm sau vợ nó gọi điện báo tin, nó đã dính vào vòng lao lý, gia đình, tài sản tan nát cả.
Trong lãnh vực văn học, nghệ thuật cũng vậy, không phải lúc nào các văn nghệ sỹ cũng viết hay, viết giỏi. Tài năng của họ thực sự chỉ bộc lộ trong ít năm mà thôi. Người nào được đánh giá là những cây đa, cây đề trong làng văn học để lại cho đời vài, ba tác phẩm là cũng may mắn lắm rồi. Còn lại thật ra họ viết cả đời chỉ là những dạng văn kiếm sống mà thôi. Có cố gắng mãi cũng chỉ đẻ ra những quả trứng ung, trứng lép. Ở Đức, khi nào buồn buồn, mấy bác, mấy cụ nhà văn già(thuyền nhân) gọi điện cho tôi đến hầu, điếu đóm, rượu chè. Các cụ hay bàn đến những nhà văn nhà thơ lớn ở ngoài Bắc, như Nguyễn Tuân, Nguyễn Công Hoan, Xuân Diệu, Chế lan Viên… Trước năm 1945, họ viết hay như vậy, sau khi tự đổi mình theo Việt Minh cây bút của họ bị trói buộc không viết được gì cả. Tôi chỉ ngồi nghe, không dám có ý kiến, sợ các cụ chưởng cho mấy nhát, nhỏ mà dám hỗn. Thật lòng tôi rất nể, phục kiến thức của các cụ, nhưng tôi không hẳn đồng ý những ý kiến đó. Tôi nghĩ rằng, tài năng của các bác nhà văn, nhà thơ trên, chỉ bộc lộ thực sự những năm khi họ còn trẻ, còn sau này họ không viết được như trước vì một phần tài năng họ đã cạn, chứ trói tay, trói chân không phải là nguyên nhân chính. Nếu họ còn tài năng, trói như vậy chứ trói nữa, họ vẫn viết được. Họ không được viết công khai, thì viết bí mật. Sách của họ không được in, không được phổ biến, nhưng họ có thể cất đi, lúc nào đó sẽ được in có sao đâu. Mà văn thơ viết ra đâu chỉ nhằm có một mục đích để in bằng giấy mực. Đã là các nhà thơ, nhà văn tác phẩm của họ phải in vào lòng độc giả, mới là những giải thưởng đích thực. Bằng chứng là các nhà thơ, nhà văn Nguyễn Tuân, Xuân Diệu… mất đi, những phóng sự, bút ký, những bài thơ đậm chất cổ động như Hà Nội Ta Đánh Mỹ Giỏi, Sông Đà, Ngói Mới … cũng chết theo. Người ta cố tìm trong hành trang của người đã mất, xem có còn những miếng quặng chưa được khai phá hay không, mà có khi tác giả cố tình cất giấu sau “Vang bóng một thời” hoặc những câu thơ đầy tính lãng mạn, mượt mà “ Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi…”.. nhưng hoàn toàn thất vọng. Nhưng một bằng chứng khác, cho chúng ta thấy, có những tài năng càng cấm đoán, tù tội, lại càng viết hay. Những tài năng này viết ra, sách của họ có được in đâu. Nếu có in, họ cũng phải nhờ người khác đứng tên. Ấy vậy mà họ mất đi, những cái tên Phùng Quán, Trần Dần, Lê Đạt… đóng đinh vào lòng người đọc.
Có một chi tiết, tôi cho là thú vị, nhưng không biết có đúng hay không? Các văn nghệ sỹ (có lúc) bị đói một chút, có khổ một chút, có đắng cay một chút, dường như họ viết hay hơn. Các văn nghệ sỹ, sống trong bao cấp, viết bằng tài trợ, thường ít để lại những tác phẩm nào ra tấm, ra miếng. Bằng chứng là các văn nghệ sỹ của nhà nước, lâu lâu cùng nhau hội thảo, phát động phong trào viết về cái này, về cái kia… ở các nơi nghỉ mát (tất nhiên kinh phí là do nhân dân là các chủ nhân ông của đất nước gánh chịu). Sau đợt phát động này, các bác bắn ra một loạt tác phẩm đượm chất cổ động, nào là – Anh Chủ Nhiệm(bài thơ này, bao thế hệ học sinh phải ra rả đọc như quốc kêu, cho đến thuộc lòng như cháo) rồi đến những câu ca, tôi đứng trông sang nhà chị giỏi chăn nuôi, thấy đàn lợn béo, nước trong leo lẻo tưới mát cho từng con… Và đây còn kinh dị hơn nữa, cây súng bên mình cũng đẹp như em…Ôi giời, đất ơi! cái thứ vũ khí giết người, lạnh tanh như vậy mà các bác khen đẹp, mang so sánh với các cô gái duyên dáng Việt Nam ta. Dù có nâng lên đến chủ nghĩa này, học thuyết nọ, nghĩa đen hay nghĩa bóng, cũng chẳng rọi tìm được tính chân, thiện, mỹ trong văn học nào ở đây. Bây giờ ở Việt Nam ta, có rất nhiều hoa hậu, ứ hậu, thử hỏi có cô nào dám ôm cái của nợ này, lên sân khấu trình diễn không? Qua những những lần phát động này, thành quả sáng tác của các văn nghệ sỹ chẳng khác gì những đội sản xuất của hợp tác xã thời bao cấp.
Tháng 5 vừa rồi ở Đức có ngày đàn ông, các bà vợ cho các ông chồng xả láng. Chúng tôi, cánh đàn ông rủ nhau tụ tập rượu chè. Không hiểu ông bạn hàng xóm, đi bắt ở đâu về mấy con ngan, xắn tay áo một mình lụi hụi đánh tiết canh. Anh không cho ai giúp, sợ làm hỏng hàng độc. Chúng tôi quí anh, nhưng lại rất sợ nhậu cùng anh, vì anh uống rượu vào là hay nói lung tung, can mãi mà chẳng được. Bữa nhậu đang vui vẻ, xung quanh đề tài, làm sao giúp quí ông sinh được con trai hay gái theo ý muốn. Ông bạn hàng xóm này, bẻ ngoặt giò lái sang đề tài văn học, thế mới chết chứ. Đúng là rượu vào lời ra, chẳng ai chịu ai, toàn những đại học, với cựu nghiên cứu sinh mà cãi nhau cứ như mổ bò ấy. Ông hàng xóm, to mồm khảng định, nếu còn hội nhà văn của nhà nước, thì Việt Nam không bao giờ nhận được giải Nobel về văn học. Bằng chứng anh ta đưa ra, có nước không có hội nhà văn, mà họ vẫn có tác phẩm văn học nhận giải Nobel. Anh ta còn cả gan đề nghị với nhà nước, nếu không muốn giải tán hội nhà văn nhà nước, nên bỏ bao cấp, cho thành lập hội văn nghệ tư nhân, để cùng nhau phát triển. Tất cả các con mắt đục ngầu nhìn chõ về phía anh ta, đồng thanh, ông tưởng lập hội mà dễ đấy, còn quản lý nữa chứ, đây là ngành đặc biệt. Anh ta gân cổ giải thích, thì coi nó như các hội làm kinh tế khác, cũng có môn bài, hàng tháng cũng phải khai báo thuế, nghĩa vụ, trách nhiệm với xã hội. Anh nào làm sai luật, thì đi tù chơi vậy thôi… Cho là anh ta say rồi, nên mọi người không thèm chấp. Thấy mọi người im lặng, anh ta tưởng mình có lý, làm ra vẻ tiên tri (lại còn thế nữa) anh bảo đảm chắc chắn, nếu Việt Nam, nhận được giải Nobel về văn chương, người đó chắc chắn không phải là nhà văn, trong hội của nhà nước. Không chịu nổi, tôi bịt miệng, kéo anh ta ngồi xuống. Uống tiếp, thật là, chẳng ra làm sao cả!
Cách đây có lẽ cũng đến mấy năm, tôi đọc đâu đó, giáo sư Hà Minh Đức nịnh đầm nhà thơ Xuân Diệu, Anh (tức Xuân Diệu) làm việc bằng cả viện văn học. Vị giáo sư này bảo nói đùa, sau đó lại in thành sách, tôi nghĩ không còn là đùa nữa. Không rõ nhà thơ Xuân Diệu nhận được lời khen này, lúc đó ông đã nghĩ gì? Có người độc mồm, độc miệng bảo, khác gì sát ớt vào mặt các vị giáo sư, tiến sĩ của viện văn học, rõ là phí tiền đóng thuế của dân. Người sạch mồm sạch miệng hơn, lại nói, người Việt ta có tính xấu khó sửa, thích ai, nịnh ai thì tâng qua đầu, ghét ai đạp xuống cho đến chết. Chả lẽ cả cái viện hàn lâm này, thường đến thế thôi sao?. Còn nữa, tôi lại gặp trên báo mạng giáo sư Phan Ngọc khen Nguyễn Tuân viết về đề tài nào, cũng đều sâu sắc, trình độ, như luận văn tiến sĩ. Trình độ tiến sỹ mà ông Ngọc dễ dãi đưa ra như vậy, trách gì ở Việt nam ta có quá nhiều tiến sỹ giấy. Tôi nói thật, các nhà khoa học chân chính (tôi nói vậy bởi VN còn có một số nhà khoa bảng dởm theo tiêu chuẩn của ông Phan Ngọc) của chúng ta quá hiền lành, bị xúc phạm như vậy mà vẫn làm thinh. Có lẽ họ ngại va chạm chăng?. Làm gì có chuyện một người kém về sinh vật học như Nguyễn Tuân, sau cách mạng tháng tám, nhờ đảng và tự học, Nguyễn Tuân đạt đến trình độ tiến sỹ(viết) về lâm nghiệp, sinh vật học? Tôi nói cụ Nguyễn Tuân rất kém về sinh học, không phải nói bậy. Nguyễn Tuân chẳng để chú tiểu bẻ cành đào tươi cho vào gánh nước, mang về pha trà uống đó sao? Chẳng lẽ giáo sư Phan Ngọc cũng không biết nhựa đào có độc? Tài văn của cụ Nguyễn Tuân, không có thể ai phủ nhận. Nhưng không phải lúc nào ông viết cũng hay và cái gì cũng đúng. Văn chương cũng như cuộc sống cần có sự công bằng. Cứ khen kiểu ông Phan Ngọc, khác gì bôi bác Nguyễn Tuân. Nếu quả thật, Việt Nam trình độ giáo sư, tiến sỹ theo tiêu chuẩn của ông Phan ngọc này, thì ngành giáo dục của chúng ta, không sớm thì muộn cũng tan nát.
Mấy năm trước đây, tôi có nhờ trannhuong.com, tìm giúp bài thơ, Huyện Lắc của cố thi sĩ Xuân Diệu. Anh Trần Nhương có nhận lời giúp, nhưng không chắc vì bài thơ này không hoặc chưa in ấn. Qua bài viết này, mong rằng các nhà nghiên cứu về Xuân Diệu có thể tìm thấy. Bài này chúng tôi chỉ còn nhớ có câu đầu: Hồ Lắc bên huyện Lắc. Theo nhận xét của ông bạn Hoàng Thế Hoan (làm nghề dậy học ở Đà Lạt quê quán Nam Định) bài thơ này, Xuân Diệu viết như bài văn tả cảnh của học sinh lớp 4.
Khoảng năm 1979, sáng thứ hai nào, trong buổi chào cờ, học sinh chúng tôi cũng hát vang “ Tiếng súng đã vang trên bầu trời biên giới, gọi toàn dân ta vào cuộc chiến đấu mới, quân xâm lược bành trướng dã man, đã dầy xéo…”. Vào đúng thời điểm này, Xuân Diệu đến thăm và nghỉ mát tại Hồ Lắc, tỉnh Đak Lak. Ông có đến bình, đọc thơ ở hai nơi đó là trường sư phạm, và trường đại học Tây nguyên. Cả hai nơi, ông nói chuyện y trang như nhau, và đều đọc bài thơ này. Buổi thứ 2 ở ĐH Tây nguyên, chán quá, tôi và Hoàng Thế Hoan bỏ về nửa chừng. Thành thật mà nói, Xuân Diệu nói và bình thơ không hay. Buổi nói chuyện ở trường sư phạm, có hiệu trưởng Hồ Đình Phương và hình như có cả anh Nguyễn Lưu, lúc này anh đang dạy ở ĐH Tây Nguyên (Anh Nguyễn Lưu con cụ Nguyễn Xiển) đến nghe. Nhiều lần nhà thơ Xuân Diệu gọi hiệu trưởng mắng, có lúc đang nói nhà thơ cũng dừng lại mắng hiệu trưởng, chỉ vì ba cái lặt vặt, như sắp chỗ ngồi, hoặc treo đi treo lại chiếc bóng đèn. Tôi cũng không hiểu sao, thầy Phương ngồi yên, không phản ứng gì cả. Thầy là dân Nam bộ, tôi biết thầy rất nóng tính, và sòng phẳng. Tuy thầy đã lớn tuổi, nhưng thầy vẫn chơi ở vị trí chuyền hai, của đội bóng chuyền trường tôi. Cả đội chỉ có tôi và anh Hường là học sinh, nhưng lại là nòng cốt của đội bóng. Từ thích thể thao, nên thầy quí luôn chúng tôi. Chiều nào, chúng tôi cũng tập cùng thầy nên tôi rất rõ tính của thầy. Tôi biết hôm đó thầy nén nhịn nhiều lắm. Hình như buổi nói chuyện đó, có một cái gì đó bất bình thường, tôi nghĩ vậy. Bây giờ, tóc trên đầu đã bạc quá nửa, tôi mới nghiệm ra một điều, cứ không phải ông nào có học vị cao, là có văn hóa. Có rất nhiều người thất học, nhưng lại có văn hóa rất cao. Sau buổi nói chuyện, ông bạn Hoàng Thế Hoan ( Hoan lúc này, đang là sinh viên sư phạm Đà Lạt) rủ tôi sáng mai, lên xin nhà thơ Xuân Diệu bài thơ Huyện Lắc đọc lại. Hoan vừa thăm dò được nhà thơ đang nghỉ ở nhà khách tỉnh ủy. Tôi bảo, sao khi nãy không xin, mà đã nghe rồi, ông chê như bài văn tả cảnh, còn xin làm gì. Hoan bảo khi nãy đông quá, đọc lại xem có cảm xúc gì khác không? Tôi biết Hoan rất thích thơ Xuân Diệu, nể bạn từ Đà lạt sang, nên tôi nhận lời đi cùng. Biết tính Hoan bộp chộp, ăn nói ít ý tứ, nên trước khi đi tôi bảo, nếu nhà thơ tiếp, ông nên ăn nói cẩn thận. Đến cổng tỉnh ủy, tôi định không vào. Tôi sợ. Tôi sợ đứng trước một nhà thơ lớn, tôi sợ phải đi qua cái cổng có người lính gác. Xem xong thẻ sinh viên, người cảnh vệ chỉ nơi ở của nhà thơ. Chúng tôi đến gần, thấy nhà thơ Xuân Diệu đang đi về hướng chiếc xe mầu đen đỗ đầu hồi nhà. Cửa xe đã mở. Biết rằng ông sắp đi đâu đó, Hoan đi nhanh về phía ông, thấy thế tôi đứng lại. Không hiểu Hoan nói với ông những gì, tôi chỉ nghe thấy tiếng của nhà thơ hơi lớn, và gắt. Hoan quay lại, tôi hỏi sao? Hoan bảo,bị đuổi thôi. Tôi cũng không hỏi gì thêm. Nhưng tôi nghĩ chắc Hoan nói gì làm phật ý nhà thơ.
Trên đời này có ai được hoàn hảo đâu, nhất là trong văn chương. Vì thương nhau đôi khi bốc thơm nhau mà thôi. Các cụ nói, Thánh Nhân còn có khi sai cơ mà. Nhưng Thánh Nhân nào chúng ta gặp gặp bao giờ?
Frankfurt/M tháng 6-2008- Leipzig 4-11-2012
© Đỗ Trường
© Đàn Chim Việt
http://www.danchimviet.info/archives/68362/van-ch%C6%B0%C6%A1ng-va-con-ng%C6%B0%E1%BB%9Di/2012/11 

Thứ Bảy, 15 tháng 6, 2013

Vọng Cổ Hài : Thiếu cả người viết lẫn người ca (RFI)

Thứ bảy 15 Tháng Sáu 2013
Vọng Cổ Hài : Thiếu cả người viết lẫn người ca
Hài cải lương Văn Hường (DR)
Hài cải lương Văn Hường (DR)
Lê Phước
Trong làng vọng cổ, không chỉ có những bài ca mùi với những chuyện tình lâm ly bi đát làm rơi nước mắt, mà người mộ điệu có khi cười ra nước mắt với những bài vọng cổ vui nhộn thường được gọi là “Vọng cổ hài”. Một vở cải lương dài mà cứ khóc than hoài thì cũng không được. Bên cạnh cái mùi, cải lương cũng cần cái hài.
Gần 100 năm hình thành và phát triển, vọng cổ mùi đã biết đến rất nhiều giọng ca đặc sắc như Út Trà Ôn, Thanh Hương, Út Bạch Lan, Thanh Nga, Ngọc Giàu, Mỹ Châu, Phượng Liên, Minh Cảnh, Tấn Tài, Thành Được, Minh Vương…Thế nhưng vọng cổ hài thì chỉ vỏn vẹn có Hề Minh, Văn Hường và Hề Sa là thật sự khẳng định được tài năng trong lĩnh vực ca vọng cổ. Sau ba giọng ca hài đặc sắc này, theo thời gian vọng cổ hài dần bị mai một.
Hề cải lương và hề ca vọng cổ
Trước tiên cần phân biệt giữa Hề cải lương và Hề ca vọng cổ. Trên sân khấu cải lương, các đào kép chánh thường là những đào kép mùi, thủ những vai bất hạnh bi thương để lấy nước mắt và sự cảm thông của khán giả. Thế nhưng, xem một vở cải lương mấy tiếng đồng hồ nếu mà cứ cảnh khóc than hoài thì cũng không được. Bởi vậy, bên cạnh cái mùi, sân khấu cải lương cần có cái hài.
Trách nhiệm của các vai hài là làm sôi động sân khấu để phá tan đi cái ngột ngạt của những tình tiết lâm ly bi đát, nhằm mang lại tiếng cười cho khán giả. Những cây hài nổi danh của thể loại này có thể kể đến: Quái Kiệt Ba Vân, Hề Tư Xe, Hề Lập, Hề Tám Cũi, Hề Tư Rọm, Hề Kim Quang, Hề Văn Hường, Hề Minh, Hề Quới, Hề Sa, Hề Vui, Hề Văn Chung.
Sau đó có thể kể đến Trường Xuân và Giang Châu. Thật ra thì Trường Xuân xưa kia chuyên trị vai kép độc, còn Giang Châu thì là kép mùi, nhưng cả hai khi tham gia vở cải lương Ngao Sò Óc Hến của soạn giả Nguyễn Thành Châu trong vai Bác Ngao và Trùm Sò, cái tài hài hước của họ đã được khẳng định. Sau đó, hài cải lương có thể kể đến Phú Quý, Duy Phương, Thanh Nam, Tấn Beo, Bảo Chung…
Thể loại hài vừa kể trên là hài cải lương, tức tham gia ca diễn trong một vở cải lương. Vào thời vàng son của cải lương, tiếng tăm và tiền cát sê của một số anh hài cải lương không thua kém gì đào kép chánh. Cũng có khi khán giả mua vé đến xem một đoàn hát không phải vì yêu mến cặp đào kép chánh mà là vì ái mộ anh hài của đoàn. Hài thể loại này phải biết diễn xuất cải lương, phải biết ca các bài bản cải lương, tức cũng là một diễn viên cải lương thực thụ nhưng chuyên trị các vai gây cười. Vai trò của họ rất quan trọng: Nếu anh kép chánh mang lại sự cảm thông và làm rơi nước khán giả, thì anh kép hài có nhiệm vụ làm cho khán giả lấy lại sự cân bằng cảm xúc, được dịp vui cười.
Vọng cổ là bài ca vua của sân khấu cải lương. Không chỉ vậy, ở các sân chơi đàn ca tài tử, vọng cổ luôn là bài ca chủ đạo. Về phần khán giả, khi đánh giá phần ca của nghệ sĩ cải lương, đa phần đều để ý đến cách vô vọng cổ có được ngọt không, giọng ca có mùi không. Thậm chí mấy ông bà bầu xưa kia khi muốn nhận một ai đó vào làm nghệ sĩ cho đoàn mình, thì việc thử giọng đều nhắm vào bài vọng cổ. Bởi thế, các nghệ sĩ thành danh của làng sân khấu cải lương Nam Bộ, tuyệt đại đa số đều ca vọng cổ rất hay và rất mùi.
Nếu sân khấu cải lương cần có những vai hài, thì bài vọng cổ cũng cần có những giọng ca hài. Làm hề cải lương thì tập trung vào diễn, còn ca chỉ là động tác hỗ trợ cho vai diễn mà thôi. Đối với ca vọng cổ hài, anh hài tập trung vào động tác ca là chính. Tức là, trên sân khấu cải lương, một anh hài cải lương có giọng không hay và nhịp không chắc cũng không sao, cái quan trọng là anh ta diễn xuất trọn vai để lấy tiếng cười của khán giả.
Còn trong ca vọng cổ hài, thì động tác chính của người nghệ sĩ hài là ca, còn động tác chính của người mộ điệu là thưởng thức bằng cách nghe, bởi thế anh hài ca cổ đòi hỏi phải có bản lĩnh ca vọng cổ thật sự. Đòi hỏi này cũng giống như đối với những giọng ca vọng cổ mùi thực thụ, nhưng cái khác là ở đây người nghệ sĩ hài ca những bài vọng cổ hài. Nói như vậy thì hề ca cổ phải có giọng tốt và nhịp nhàng vững chắc, cùng với kỹ thuật ca và phong cách ca tạo được dấu ấn riêng.
Ba tay cự phách trong làng vọng cổ hài
Những nghệ sĩ hài đã khẳng định tên tuổi trong làng vọng cổ hài có thể nhắc đến là Hề Minh, Văn Hường và Hề Sa. Trong ba cây hài nói trên, Hề Minh là bậc tiền bối. Tên thật của Hề Minh là Nguyễn Văn Minh. Vào khoảng năm 1955, Nguyễn Văn Minh được nhận vào đoàn cải lương Kim Thoa của ông bầu Nguyễn Huỳnh Phước và được đặt cho nghệ danh Hề Minh. Sự nghiệp Hề Minh bắt đầu từ đó.
Hề Minh có khả năng vừa diễn xuất tốt vai hài trong các vỡ cải lương, vừa ca vọng cổ hài rất hay. Hề Minh có giọng trầm, chân phương, và hơi không dài. Bởi vậy anh ca như nói, rất chân phương, rất gần gũi với bà con nông dân vùng sông nước Cửu Long. Bộ nhịp của Hề Minh rất chắc, anh ca như làm xiếc trên dây đờn.
Đặc trưng của bản vọng cổ hài là thường có rất nhiều chữ, vì thế người ca phải ca chạy chữ thật nhanh để cho kịp nhịp. Mà ca chạy chữ làm sao để người nghe vẫn nghe được rõ ràng lời ca để có thể hiểu được lời văn và nội dung bài ca. Vì làn hơi không dài nên Hề Minh không chọn cách luyến láy, mà anh có cách sắp chữ thần sầu phù hợp với giọng ca và làn hơi của anh.
Đặc trưng lớn nhất của Hề Minh là anh ca rải đều chữ, ca như nói, người nghe nếu không để ý sẽ không biết anh ca gần tới song lang cuối câu chưa, nhưng Hề Minh ca bình bình rồi xuống song lang cuối câu lúc nào cũng thật ngọt thật hay. Hề Minh nổi tiếng nhất với các bài vọng cổ: Tôi Mến Làng Tôi, Bức Thư Tình, Mèo Lại Hoàn Mèo…
Thế nhưng, phải chờ đến Văn Hường thì vọng cổ hài mới có thể nói là thật sự làm mưa làm gió trên thị trường cổ nhạc. Văn Hường tên thật là Nguyễn Văn Hường, sinh năm 1934 tại Thủ Đức, Sài Gòn. Tài năng của anh được phát hiện vào năm 1960 tại quán Lệ Liễu ở Sài Gòn. Số là một hôm, ông bầu Bảy Cao của đoàn Hoa Sen-một đoàn hát đình đám lúc bấy giờ ở Sài Gòn, đến giải trí tại quán Lệ Liễu, và phát hiện ra chất hài trong giọng ca Văn Hường, nên đã lập tức đề nghị ký giao kèo với anh.
Thế là Văn Hường về hát cho đoàn Hoa Sen. Thật ra lúc đầu Văn Hường chuyên ca vọng cổ mùi. Về đoàn Hoa Sen anh cũng ước được leo lên hàng kép chánh. Thế nhưng, ông bầu Bảy Cao đã đề nghị anh tập trung vào ca diễn hài. Và trong vở tuồng đầu tiên, Văn Hường đóng cặp với Diệu Hiền trong vai cặp ở đợ và nữ tỳ. Đêm diễn thành công ngoài mong đợi, Văn Hường đã bắt đầu khẳng định tên tuổi của mình trên làng hài cải lương.
Thế nhưng, lợi thế của Văn Hường không phải là diễn, mà là ca. Văn Hường lúc đầu ái mộ Hề Minh vì ca vọng cổ hài trước Văn Hường thì có thể nói chỉ có Hề Minh. Văn Hường cũng rất thích giọng ca của bậc tiền bối Tám Thưa với lối ca “ơ..ơ..” rất Tài Tử Nam Bộ. Thế là Văn Hường nghiền ngẫm cách sắp chữ của Hề Minh để tạo cho mình một lối sắp chữ không kém phần thượng thừa đối với người đi trước. Đặc biệt, Văn Hường đã thay cái “ơ..ơ…” của Tám Thưa thành “ự…ự” rất riêng, rất Văn Hường. Và cái lối ca “ự…ự’’ đó đã trở thành thương hiệu riêng của Văn Hường, làm say đắm không biết bao nhiều con tim người mộ điệu.
Đi sâu vào kỹ thuật ca vọng cổ của Văn Hường, ta thấy anh có giọng đối lập với giọng ca của Hề Minh: Hề Minh có giọng trầm còn Văn Hường có giọng trong trẻo và cao vút. Hề Minh thì hơi không dài chứ Văn Hường thì có hơi dồi dào mặc sức tung hoành luyến láy. Đặc biệt hơn hết bộ nhịp của Văn Hường thuộc hàng thượng thừa. Nhờ có bộ nhịp thượng thừa, Văn Hường mặc sức tung hoành trên dây đờn. Có thể nói rằng, anh thuộc hàng “sư phụ” của kỹ thuật “làm xiếc trên dây đờn”.
Như đã nói bên trên, các bài vọng cổ hài thường có rất nhiều chữ, nghệ sĩ hài ca phải chạy chữ cho kịp nhịp. Về vấn đề này, Văn Hường ca chạy chữ thuộc hàng sư phụ. Có nhiều bài chữ nhiều lắm, nhưng anh ca rất rõ ràng, rất cảm xúc và về song lang chính xác “như để” vậy.
Soạn giả chấp cánh cho Văn Hường là “ông vua” Viễn Châu. Thử làm một thống kê nhỏ ta sẽ thấy rằng hầu hết các bài vọng cổ hài nối tiếng nhất của soạn giả Viễn Châu đều được viết theo kiểu “đo ni đóng giày” cho Văn Hường. Vào năm 1960, Viễn Châu cũng đã phát hiện ra giọng ca Văn Hường và giới thiệu cho hãng dĩa thu âm với bài vọng cổ hài đầu tiên là Đêm Tân Hôn. Rồi sau đó là trên một trăm bài vọng cổ dành cho Văn Hường: Tư Ếch Đi Hội Chợ, Tư Ếch Đại Chiến Văn Hường, Lá Sớ Táo Quân, Vợ Tôi Tôi Sợ, Tề Thiên Đại Thánh, Tào Tháo Cháy Râu…Nhiều lắm, không thể nào kể hết được.
Ta thấy rằng, trong đời nghệ sĩ, một nghệ sĩ tạo dấu ấn trong vài bài vọng cổ đã là quý, còn đối với Văn Hường, anh đã thật sự thành công trong quá nhiều bài vọng cổ hài. Những bài vọng cổ hài của Viễn Châu đã đưa Văn Hường đạt được vương vị “Vua Ca Vọng Cổ Hài”, bên cạnh “Vua Viết Lời Vọng Cổ” Viễn Châu và “Vua Ca Vọng Cổ” Út Trà Ôn.
Thủ Đức đã sinh ra Văn Hường vào năm 1934, thì vào năm 1941 lại tặng thêm cho làng vọng cổ hài một giọng ca hài điêu luyện khác, đó là Hề Sa. Từ nhỏ, Hề Sa đã mê vọng ca Văn Hường qua sóng phát thanh. Cảm thấy giọng ca của mình rất giống Văn Hường, nên Hề Sa luôn tập ca theo thần tượng.
Và quả thật, Hề Sa có giọng cao và trong như Văn Hường. Hề Sa đã kế tục Văn Hường lối vô vọng cổ theo kiểu “ự..ự” rất đặc sắc. Anh cũng có một bộ nhịp thượng thừa và một lối sắp chữ thuộc hàng cao thủ. Năm 16 tuổi, Nguyễn Văn Sa bắt đầu cuốn gói theo gánh hát. Năm 21 tuổi anh đầu quân cho đoàn Thủ Đô, rồi sau đó là đoàn Kim Chung, Thanh Nga…Và cái tên Hề Sa bắt đầu trở nên lẫy lừng. Có thể nói rằng, sau Văn Hường thì Hề Sa kế tục xứng đáng người đi trước trong lĩnh vực vọng cổ hài dù rằng sự nghiệp của anh không lừng lẩy bằng “sư phụ” Văn Hường.
Đến hiện tại, trong khi Hề Minh đã về với tổ nghiệp vào năm 1985 ở cái tuổi 58, Văn Hường do tuổi cao không còn hát nữa, thì Hề Sa vẫn đi biểu diễn thường xuyên. Hề Sa nổi tiếng với các bài Pháp Sư Giải Nghệ, Trời Sinh Voi Sinh Cỏ, Tôi Đi Lính…
Đặc trưng của bài vọng cổ hài
Viễn Châu được mệnh danh là “Ông vua viết lời vọng cổ” với hơn 2000 bài vọng cổ. Ông là soạn giả “đo ni đóng giày” thành công nhất bởi chính bài ca của ông đã chấp cánh cho hầu hết các tên tuổi hàng đầu của thế hệ nghệ sĩ vàng: Út Trà Ôn, Út Bạch Lan, Thanh Nga, Lệ Thủy, Mỹ Châu, Phượng Liên, Thành Được, Tấn Tài, Minh Cảnh, Thanh Sang, Minh Vương…
Còn trong làng vọng cổ hài thì Viễn Châu cũng đã đo ni đóng giày thành công cho giọng ca Văn Hường. Và nếu Văn Hường là “Vua Ca Vọng Cổ Hài”, thì Viễn Châu phải là “Vua Viết Lời Vọng Cổ Hài”. Ông viết riêng cho Văn Hường trên 100 bài vọng cổ hài. Chưa kể là các bài ông viết cho Hề Minh và Hề Sa ca như Tôi Mến Làng Tôi hay Pháp Sư Giải Nghệ.
Bên cạnh Viễn Châu, còn có một số soạn giả vọng cổ hài ăn khách khác là Quy Sắc, Loan Thảo …Ta thấy rằng, chẳng những nghệ sĩ ca vọng cổ hài đã hiếm, mà soạn giả viết vọng cổ hài thành công cũng không nhiều.
Nhìn vào các bài vọng cổ hài đã được khán giả chấp nhận, ta thấy có mấy đặc điểm sau :
- Nội dung bài hát thường là châm biếm thói hư tật xấu hay những hủ tục trong xã hội. Nó đưa được đời sống thường nhật lên sân khấu, để người nghe cảm nhận được điều châm biếm trong bài hát cũng thật sự tồn tại đâu đó, hoặc dã là tồn tại ở chính bản thân người nghe. Để từ đó, mỗi người tự ý thức mà sửa chữa lỗi lầm bản thân hay giúp người khác sửa chữa, nhằm làm cho con người được hoàn thiện hơn, xã hội được tốt đẹp hơn, đúng với tinh thần chung của cải lương Nam Bộ.
- Sự châm biếm phải thật nhẹ nhàng và tế nhị. Lời văn phải được chọn lựa kỹ càng, phải dí dỏm và phải được đặt đúng nơi đúng chỗ.
- Nghệ sĩ hài biểu diễn phải thật sự có năng lực ca vọng cổ, tức phải có giọng ca, phải có bộ nhịp cho vững để có thế tung hoành trong bài hát một cách dí dỏm nhằm gây cười cho khán giả, phải có sự tập luyện bài bản và kiên trì để có được một lối ca điêu luyện.
Vọng cổ hài hiện tại : thiếu người viết lẫn người ca
Nhìn vào hiện tại, vọng cổ hài thiếu nghiêm trọng, thiếu người ca lẫn người viết. Soạn giả Viễn Châu thì tuổi già sức yếu không thể cầm bút được nữa, những bài vọng cổ của ông nói chung và vọng cổ hài nói riêng được hát đi hát lại mãi.
Gần đây, trong chương trình Vầng Trăng Cổ Nhạc tại Thành Phố Hồ Chí Minh, Hề Sa phải ca lại bài Văn Hường Đi Suzuki của Viễn Châu. Để giới thiệu cho bài ca này, người dẫn chương trình khi ấy giới thiệu rằng, đó là bài mà Viễn Châu viết từ cảm nhận hiện tượng tai nạn giao thông trong hiện tại. Cách giới thiệu này có phần không tôn trọng khán giả vì ai mê vọng cổ hài mà không biết rằng Văn Hường đã ca thu đĩa bài này mấy chục năm trước rồi.
Thế nhưng, ở đây muốn nhấn mạnh rằng, trong hiện tại cuộc sống có quá nhiều việc cần lên án, cần châm biếm, thế mà không hiểu tại sao lại không hề thấy một bài vọng cổ hài có chất lượng nào được ra đời?!
Đó là về phần soạn giả, còn phần của nghệ sĩ ca vọng cổ hài thì sao? Ta thấy rằng, sau Hề Minh thì có Văn Hưòng, và Văn Hường đã làm được cái câu “sóng sau dồn sóng trước”.
Sau Văn Hường thì có Hề Sa. Dù tự nhận là bản sao của Văn Hường, nhưng rõ ràng Hề Sa đã tạo được cho mình một phong cách riêng, một giọng ca riêng. Người nghe dễ dàng phân biệt được giọng ca Hề Sa với Văn Hường. Dù không vượt được “thầy”, nhưng Hề Sa cũng đã kế tục được vọng cổ hài một cách xứng đáng.
Sau Hề Sa thì cũng có một số giọng ca hài đáng chú ý như Giang Châu hay Hề Thanh Nam. Thế nhưng, hai người này gắn bó với cải lương nhiều hơn, tức là chỉ tập trung đóng hài trong các vỡ cải lương chứ chưa tách hẳn ra gia nhập vào sân chơi vọng cổ hài độc lập với cải lương như trường hợp của Hề Minh, Văn Hường hay Hề Sa.
Sau những người này, thì thế hệ hiện tại ta thấy có rất nhiều hài, nhưng hầu hết là hài cho các tiểu phẩm hài theo lối kịch, còn trong cải lương thì quả thật hiện tại không thấy có danh hài nào có thể ca diễn bài bản theo lối cải lương cho các vỡ cải lương. Hài cải lương đã thiếu, hài vọng cổ còn thiếu hơn, thiếu đến mức nghiêm trọng. Trong quá nhiều danh hài hiện tại, rõ ràng là không thấy ai có khả năng kế tục được vọng cổ hài.
Cần nhắc lại rằng, vọng cổ hài từ thuở Văn Hường đã thật sự trở nên độc lập với cải lương và với vọng cổ mùi. Tức là, nó đã trở thành một lĩnh vực có thể một mình thu hút khán giả, có được lượng khán giả riêng. Trong hiện tại, văn hóa truyền thống Việt Nam nói chung và cải lương nói riêng đang gặp nhiều khó khăn do phải chia khán giả với quá nhiều loại hình giải trí ngoại nhập khác.
Mọi người dù thích cải lương nhưng thật sự khó sắp xếp được thời gian để ngồi xem, thậm chí là nghe trọn vỡ tuồng dài đến mấy tiếng đồng hồ. Trong bối cảnh đó, vọng cổ thật sự trở thành một cứu cánh quan trọng cho nghệ thuật cải lương, bởi một bài vọng cổ 4 câu thì ca độ chừng 6 phút, tức tương đương với một bài tân nhạc. Các nghệ sĩ cải lương khi chạy sô ở các chương trình văn nghệ tổng hợp cũng thường chỉ ca vọng cổ mà thôi.
Nhưng vấn đề là, vọng cổ thì thường buồn bã bi ai, mà có một bộ phận người thì sau những bộn bề của cuộc sống, khi rảnh rang họ muốn thư giãn thần kinh bằng những cái gì vui nhộn, tạo được tiếng cười. Bởi vậy, bên cạnh vọng cổ mùi, cần phát triển vọng cổ hài trong hiện tại, vừa để góp phần gìn giữ vọng cổ-cải lương, vừa để góp phần làm cuộc sống bớt căng thẳng, vừa có thể thu hút được bộ phận giới trẻ yêu thích sự sôi động và vui nhộn. Thế nhưng, nhìn đi nhìn lại, như đã nói bên trên, vọng cổ hài trong hiện tại đang thiếu nghiêm trọng cả về người viết lẫn người ca ?

TỪ KHÓA : Âm nhạc - Tạp chí - Văn hóa